Danh-sách những Quân-Nhân & Dân-Sự Trấn-Thủ Hoàng-Sa ngày cuối cùng.
(bị Trung-Cộng bắt làm tù-binh ngày 20-1-1974)
Tổng-số Quân-Nhân & Dân-Sự Trấn-Thủ cuối cùng ở Hoàng-Sa, bị
Trung-Cộng bắt làm tù-binh ngày 20-1-1974 gồm có 49 người, chia ra như sau:
- 14 quân-nhân
Hải-Quân,
- 25 quân-nhân
Địa-Phương-Quân
- 1
người Mỹ tên
Gerald Emile Kosh,
- 5 người
thuộc
Quân-Đoàn I & Công-Binh,
- 4 nhân-viên
Khí-tượng.
Ngày 27-1-1974, Trung-Cộng thả 6 người là
Gerald Emile Kosh và 5 thương-binh Việt-Nam gồm: 1 Hải-Quân, 2 Địa-Phương-Quân, 1
Công-Binh & 1 Nhân-viên
Khí-tượng
Ngày 17 tháng 02 năm 1974, Trung-Cộng thả 43 người còn lại.
Danh-sách dưới đây là
tài liệu riêng của ông Thuận Châu Phan Văn Khải, ghi nhận hồi tháng 2 năm
1974.
Sau 33 năm, nhiều chỗ đã bị mờ. Do đó, có thể tính danh của những
người trong cuộc không mấy chính xác. Ông Thuận Châu mong quí vị thông cảm.
1/-Những
SQ & BS Hải quân (1):
1-HQ Trung úy Lê Văn Trung
2-Trung sĩ Trịnh Vàng
3-Trung sĩ Phan Văn Bạc
4-Trung sĩ Đặng Văn Lân
5-Trung sĩ Thạch Cung
6-Trung sĩ Nguyễn Văn Hội
7-Hạ sĩ Nguyễn Văn Thắng
8-Hạ sĩ Trương Q. Nghiêm
9-Hạ sĩ Trần Văn Chương
10-Hạ sĩ Phan Văn Huy
11-Hạ sĩ Nguyễn Hữu Hùng
12-Hạ sĩ Nguyễn Ngọc Thanh
13-Thủy thủ Lư Chấn Hưng
2/-Những SQ & BS Địa phương quân :
1-Trung úy Phạm Hy *
2-Trung sĩ Hồ Ngọc Thạch
3-Trung sĩ Phạm Trúc
4-Trung sĩ Nguyễn Đức
5-Hạ sĩ Huỳnh Tiên
6-Hạ sĩ Phùng Cư
7-Hạ sĩ Trần Hổ
8-Binh I Nguyễn Phùng
9-Binh I Nguyễn Trung Văn
10-Binh I Phan Văn Trình
11-Binh I Lê Hiền
12-Binh I Lê Kim
13-Binh I Đặng Nhứt
14-Binh I Lê Lang
15-Binh II Lê Bé
16-Binh II Nguyễn Hoàng Linh
17-Binh II Phạm Bảy
18-Binh II Lê Văn Ba
19-Binh II Đoàn Mười
20-Binh II Nguyễn Thành Nhi
21-Binh II Nguyễn Văn Đa
22-Binh II Huỳnh Văn Lang
23-Binh II Võ Văn Thắng
*
Theo Th/Tá Hồng, qua lời kể của người anh là Phạm Phan, trong trại tù Kỳ
Sơn-Tiên Lãnh, Trung Úy Hy đã tự sát khi miền Nam thất thủ.
3/-Những SQ & BS thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I - VICT :
1-Thiếu tá Phạm Văn Hồng
2-Trung úy Võ Hà (Vũ Hà theo TT Hồng)
3-Trung úy Lê Văn Du (Lê Văn Đá theo TT Hồng)
4-Hạ sĩ Đinh Hữu Lễ
& 4/-Nhóm nhân viên khí tượng :
1-Nguyễn Văn Nhượng
2-Đặng Hiền Võ
3-Nguyễn Văn Tân
TỔNG CỘNG : 43 người.
3/-Những SQ & BS thuộc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I - VICT :
1-Thiếu tá Phạm Văn Hồng
2-Trung úy Võ Hà (Vũ Hà theo TT Hồng)
3-Trung úy Lê Văn Du (Lê Văn Đá theo TT Hồng)
4-Hạ sĩ Đinh Hữu Lễ
& 4/-Nhóm nhân viên khí tượng :
1-Nguyễn Văn Nhượng
2-Đặng Hiền Võ
3-Nguyễn Văn Tân
TỔNG CỘNG : 43 người.
---------------------------------------------------
Tên SQ &
Đoàn-Viên Hải quân được tu-chỉnh đến nay như sau:
1-HQ Trung úy Lê Văn Dũng
2-Trung sĩ CK Trịnh Chí
3-Trung sĩ PT Phan Văn Bắc
4-Trung sĩ GL Đặng Văn Lâm
5-Trung sĩ TP Thạch Cung
6-Trung sĩ TP Nguyễn Văn Hội
7-Hạ sĩ BT Nguyễn Văn Thắng
8-Hạ sĩ QK Trương Q. Nghiêm
9-Hạ sĩ TP Trần Văn Chương
10-Hạ sĩ CK Phan Văn Huy
11-Hạ sĩ PT Nguyễn Hữu Hùng
12-Hạ sĩ VC Nguyễn Ngọc Thanh
13-Thủy thủ KT Lư Chấn Hưng
2-Trung sĩ CK Trịnh Chí
3-Trung sĩ PT Phan Văn Bắc
4-Trung sĩ GL Đặng Văn Lâm
5-Trung sĩ TP Thạch Cung
6-Trung sĩ TP Nguyễn Văn Hội
7-Hạ sĩ BT Nguyễn Văn Thắng
8-Hạ sĩ QK Trương Q. Nghiêm
9-Hạ sĩ TP Trần Văn Chương
10-Hạ sĩ CK Phan Văn Huy
11-Hạ sĩ PT Nguyễn Hữu Hùng
12-Hạ sĩ VC Nguyễn Ngọc Thanh
13-Thủy thủ KT Lư Chấn Hưng
Nhóm tù binh tâp trung tại trại
Trại An
Dưỡng Gia Ðịnh. (Hình tư liệu của Cục Tâm Lý Chiến VNCH).
*
--------------------
Chúng tôi chân-thành cảm ơn ông Thuận-Châu Phan-Văn-Khải. Mong mỏi
quý-vị nào biết hơn xin tu-chỉnh cho danh-sách này được thêm chính-xác.
Chúng tôi xin cảm ơn trước.
nguồn :
http://haichienhoangsa.freetzi.com/danhsachtubinh.htm
http://haichienhoangsa.freetzi.com/index.htm
___________________________
nguồn :
http://haichienhoangsa.freetzi.com/danhsachtubinh.htm
http://haichienhoangsa.freetzi.com/index.htm
___________________________
Hồi Ký của người về Từ Hoa Lục Đỏ:
Tôi đã đến đó
Bí Thư Thắng
Một bất hạnh chợt đến với gia đình
tôi trong những ngày đầu năm của mùa Xuân Giáp Dần. Tôi cũng như
một số chiến hữu khác được ghi nhận là mất tích trong trận hải
chiến với Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19
tháng 1 năm 1974.
Sau hai mươi bảy ngày, được gọi là
tù binh nơi ngục tù cộng sản trên Hoa lục đỏ, tôi được trở về
với quê hương, được tiếp tục phục vụ cạnh đồng đội trên Khu trục
Hạm Trần Khánh Dư HQ4.
Giờ đây, những gian truân đã qua
rồi. Là một kẻ bị bắt làm tù binh, tôi mặc cảm vì sự yếu đuối
của bản thân, đã không làm tròn phận sự mà Tổ quốc giao phó.
Quần đảo Hoàng Sa đã lọt vào tay Trung Cộng, chúng tôi toàn thể
mười bốn thủy thủ thuộc Khu trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng
đảo Cam Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng với hỏa
lực khủng khiếp từ hạm đội địch cũng như lực lượng hùng hậu của
địch đổ bộ, chúng tôi không còn cách nào để giữ tròn nhiệm vụ
của chiến sĩ trấn thủ hải biên, để cuối cùng bị bắt sống. Nhưng
Tổ quốc mến yêu đã không bao giờ quên chúng tôi.
Trong thời gian bị bắt và bị giam
cầm tại trại Thu Dung tù binh thuộc tỉnh Quảng Châu, nhưng phản
ứng mãnh liệt của mười chín triệu nhân dân miền Nam Việt Nam đã
làm cho bọn Trung Cộng phải nới tay với chúng tôi trong cái lý
luận "cải tạo tư tưởng bằng hình thức lao động". Và sau hai mươi
bảy ngày, không thể giữ mãi cái trắng trợn của kẻ cướp đất, cướp
người, bọn Trung Cộng xâm lược đã phải nhượng bộ cái hào khí
bùng cháy của một dân tộc có bốn ngàn năm lịch sử kiêu hùng,
bằng cách trao trả toàn thể bốn mươi tám tù binh Việt Nam Cộng
Hòa vào ngày 17 tháng 02 năm 1974.
Bước xuống phi trường, tôi nôn nao
trong một nỗi niềm khó tả trước sự tiếp đón nồng hậu của đại
diện các cơ quan chính quyền, quân đội cũng như hàng ngàn học
sinh, đồng bào đã chẳng quản ngại nắng nôi, mệt nhọc, đến chào
mừng chúng tôi được trở về với Tổ quốc, với mái ấm gia đình. Tôi
tự xét bản thân mình, chẳng làm được việc gì cho đất nước mà vẫn
được tổ quốc và nhân dân đãi ngộ, ít nhất cũng một lần vinh
quang trong đời. Tổ quốc ơi, mười chín triệu đồng bào miền Nam
ơi, tôi xin cúi đầu nhận lãnh những ân huệ đại lượng này và
chẳng biết nói gì hơn là xin cho tôi được một lần viết lên sự
thật bằng chính những điều mắt thấy tai nghe, của cái mà Cộng
Sản Bắc Việt cùng Mặt Trận giải phóng Miền Nam tôn thờ như quan
thầy của mình.
Vâng, tôi xin nhân danh là một bằng
chứng cụ thể với sự phán đoán khách quan trung thực nhất thế nào
là thiên đường Cộng Sản ở Hoa Lục. Với danh dự mà nói rằng hồi
ký này không ẩn chứa một phần chính trị nào, mà chỉ là những sự
thật, tôi không sợ lầm lạc là chỉ phán đoán một chiều hay theo
một khía cạnh tuyên truyền giữa hai ý thức hệ. Tôi đã đến đó,
đến với đầy đủ ngũ quan và một khối óc. Một cán bộ Trung Ương
Đảng Bắc Kinh, mà tôi mến phục qua cái dáng dấp, nhân cách trí
thức, điềm đạm và tế nhị, đã nói với tôi:
"Ngày nào ông có trở về nước, nếu
có trình bày điều gì, tôi khuyên ông đừng nên trình bày trung
thực quá, nếu không, tôi e ông sẽ ân hận thì đã muộn ..."
Vâng, cảm ơn "đồng chí". Cũng cảm
ơn cho những ngày làm tù binh của tôi. Nếu có mệnh hệ nào thì
cũng đủ cho tôi an lòng nhắm mắt, như ông Saint Thomas đã được
nhìn thấy năm dấu thánh của Chúa. Tôi không ân hận dầu cho dù
cách mạng vô sản có nhuộm đỏ cả quê hương tôi, tôi vẫn là kẻ ly
khai khỏi tập đoàn đảng trị độc đoán sai lầm. Bây giờ tôi viết
là phó thác cả tâm hồn lẫn thể xác theo giòng chữ vì không nói
lên được những ẩm ức từ trong đáy thẳm tâm hồn thì rồi những
tháng ngày câm lặng này cũng sẽ giết lần đời tôi trong ray rứt
ưu phiền ...
... Những ngày cuối cùng của năm
"con trâu" mệt mỏi đang chậm chạp trôi qua, thì một biến cố bất
chợt mang đến cho trang sử Hải Quân Việt Nam cận đại một nét
chấm phá dị thường, với một khó khăn khôn lường trước một đối
thủ siêu cường, bọn Tàu đỏ xâm lược. Để tiếp nối chí khí hào
hùng của một dân tộc với một quá trình chiến đấu bền bỉ, kiên
cường. Vị nguyên thủ quốc gia chỉ thị cho Hải Quân Việt Nam gửi
hạm đội với bốn chiến hạm mang theo ý nguyện của mười chín triệu
con tim rực máu căm hờn, cương quyết tuyên chiến với bọn Tàu đỏ
xâm lược để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những mảnh đất xa lắc
ngút ngàn thiêng liêng của dân tộc ...
Các chiến hạm uy dũng vượt hải
trình tiến về Hoàng Sa trong hào khí bừng bừng.
Khi đến gần Hoàng Sa, thấy có hai
chiến hạm Hải quân Trung Cộng đang thả trôi án ngữ phía đông nam
đảo Cam Tuyền (Robert). Hạm trưởng chiến hạm chúng tôi (HQ4),
chỉ thị cho mười bốn nhân viên thuộc thủy thủ đoàn tình nguyện
đổ bộ lên đảo treo quốc kỳ cùng ngăn chặn lực lượng hải quân
Trung Cộng trá hình ngư phủ xâm nhập đảo.
Khoảng mười giờ ngày 18-1-1974,
toán đổ bộ gồm Tr/uý Dũng, ĐT Quý, TP Hội, TP Cung, TP Chương,
PT Bắc, QK Nghiêm, BT Thắng, KT Hưng, CK Chí, CK Huy, PT Hùng,
VC Thanh, và GL Lâm thi hành lệnh đáp xuống đổ bộ đảo. Vừa đặt
chân lên đảo, chúng tôi lục soát chung quanh hạ cờ Trung-Cộng và
dựng quốc kỳ, rồi tìm các địa thể thích hợp để phòng thủ, thu
mình trong những lùm cây chờ đợi diễn biến bất chợt xảy đến ...
Qua các tín hiệu trao đổi trên làn
sóng vô tuyến, cho thấy có nhiều gay go, nội dung đại khái bên
nào cũng nhận chủ quyền đảo và đuổi đối phương ra khỏi hải phận
mình ... rồi một sự yên lặng nặng nề căng thẳng, hình như hai
bên đang rơi vào thế thủ chờ đợi.
Một đêm yên tĩnh đi qua, sáng sớm
ngày 19 tháng 01 năm 74, chúng tôi thức tỉnh bởi hằng loạt biến
cố dồn dập. Tình hình trở nên nghiêm trọng, đưa đến cuộc hải
chiến thực sự vào lúc mười giờ hai mươi lăm phút sáng hôm đó.
Tất cả chúng tôi xách súng chạy ra bãi biển trong lúc đạn hải
pháo vang rền. Trước mặt chúng tôi, nhiều chiến hạm đang rực lên
những lóe lửa hực sáng từ những họng trọng pháo đang nhả đạn làm
khuấy động cả vùng biển êm lặng. Bởi quá xa, khói súng mù mịt,
không phân biệt được chiến hạm nào của ta, chiến hạm nào của
địch ... Cuộc hải chiến kéo dài chừng ba mươi phút, có tàu chìm,
có chiếc cháy, chiếc nghiêng, của cả đôi bên dần dần khuất xa
tầm mắt chúng tôi.
Nhìn về vùng biển xa mù mà lòng
nghe nặng trĩu, tôi không hiểu số phận của các chiến hạm và thủy
thủ đoàn ra sao. Riêng bản thân thì không một hối tiếc ân hận
nào. Dù có ta thán cũng bằng thừa trước những bất ngờ đương
nhiên của chiến tranh. Để tự an ủi chúng tôi ngồi bàn bạc về
trận hải chiến và hy vọng HQ11 sẽ đến tiếp viện.
Đêm đó, tôi suy nghĩ thật nhiều,
nhìn những khuôn mặt đăm chiêu, buồn bã của đồng đội, tôi nghe
những nao nao bứt rứt ... Dù thế nào chăng nữa, con người cũng
có những yếu đuối của bản thân, tôi liên tưởng đến sự hy sinh
nhưng những bâng khuâng lo ngại vẫn nhen nhúm bùng lên trong giờ
phút lặng lẽ ghê rợn của sự chờ đợi giữa bóng tối dày đặc của
vùng biển đen ... Tôi mệt mỏi với niềm suy tư chín mùi để rồi
thiếp dần trong giấc ngủ ưu phiền ...
Sáng sớm ngày 20 tháng 01 năm 1974,
xuất hiện mười bốn chiến hạm Hải quân Trung Cộng, trực chỉ đảo
Cam Tuyền, Hoàng Sa (do lực lượng địa phương quân và nhân viên
dân chính đài khí tượng trú đóng). Việc gì đến ắt phải đến, sau
nhiều loạt hải pháo,lực lượng hùng hậu của Trung Cộng đổ bộ tràn
ngập bốn bề đảo. Cuối cùng, nhóm tử thủ chúng tôi đành cúi đầu
chấp nhận những bất hạnh đã an bài.
Thế là hết, tôi không ngờ lần đầu
và cũng là lần cuối cùng đặt chân trên mảnh đất nhỏ bé tít mù
của dân tộc. Tôi tuyệt vọng ngước nhìn về vùng biển xa mù và xót
xa trước những đôi mắt u buồn đang lặng lẽ cúi xuống của đồng
đội. Vâng, hãy cúi xuống, hãy cúi xuống thật gần để nhìn lần
cuối cùng cái thân phận của một quốc gia nhược tiểu, sẽ còn điêu
linh biết đến bao giờ?
Những khuôn mặt dữ dằn, với súng
trên tay, chĩa về chúng tôi. Thời gian vô vọng này kéo dài đến
đúng cái nắng gay gắt của buổi quá ngọ, thì bọn chúng đổi thái
độ, họ vui vẻ mời chúng tôi hút thuốc, uống nước ... Tôi nghe họ
qua sự thông dịch mơ hồ của CK Chi và PT Hưng (là hai người Việt
gốc Hoa), họ thuyết trình về "Chính sách khoan hồng tù binh",
tất cả chúng tôi thinh lặng, dường như trong thâm tâm ai cũng tự
vẽ ra một bối cảnh tối đen hơn là nghe một điều gì ... Sau đó,
họ dẫn chúng tôi ra bãi biển và trói lại.
Sáng hôm sau, đưa lên tàu chở về
đảo Hải Nam. Khoảng mười hai giờ trưa tàu cặp bến, được chuyển
sang một chiến hạm lớn hơn, nơi đây chúng tôi bắt gặp thêm ba
mươi bốn người nữa bị bắt lên đảo Hoàng Sa. Chúng tôi nhìn nhau
thông cảm, và sau hai đêm một ngày, tàu cập cảng Quảng Châu.
Chúng tôi được tiếp nhận bằng hàng ngàn con mắt của dân quân thị
hiếu đứng đầy hải cảng. Tôi đoán thầm, không lẽ họ tử hình chúng
tôi tại đây để trả thù cho đồng chí của họ đã bỏ mình trong trận
hải chiến vừa qua. Nhưng vừa lúc đó, có ba chiếc Molotova chạy
tới và theo sự hướng dẫn của tên cán bộ thông dịch, chúng tôi
được đưa qua thành phố Quảng Châu để đến trại Thu Dung tù binh.
Lên xe, tôi chiếm vị trí thích hợp nhất để quan sát hai bên
đường. Khí tiết ở đây thật là lạnh, tôi đã mặc chiếc áo ấm bên
trong, khoác thêm chiếc ba-đờ-xuy bên ngoài mà vẫn còn thấy lạnh
khủng khiếp. Tôi chợt nhớ hôm nay là ngày mùng Một Tết, thì ra,
ngẫu nhiên, mình hưởng những ngày Tết tha hương bất đắc dĩ với
thân phận làm tù binh. Tôi ngạc nhiên khi thấy phố xá hai bên
đường không có màu sắc nào của Xuân và Tết, tôi khẽ hỏi tên cán
bộ thông dịch:
"Thưa ông, hôm nay là Tết, sao vắng
vẻ và sơ sài thế này hả ông?".
Tên cán bộ trả lời: "Tại Trung Cộng
vĩ đại của chúng tôi, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ
Tịch, Tết bây giờ đã đổi khác rồi chứ không còn lạc hậu như thời
tiền cách mạng nữa."
Tôi nghe đến tiếng "lạc hậu" thì
kín đáo nhìn sang hai bên. ừ, lạc hậu, nếu cái lý luận hoa mỹ
của "đêm ba mươi vác cuốc ra đồng, sáng mùng một trồng cây mừng
tuổi đảng", thì những y phục lòe loẹt, sặc sỡ, những cuộc du
xuân ngày nào chỉ còn là trong mơ. Tôi ngậm ngùi thương cảm cho
những con người bị rơi vào cái thế chỉ biết đầu tắt mặt tối,
tăng gia sức lao động để phục vụ cho một lý tưởng mơ hồ. Tôi hỏi
người thông dịch: "Tết mà người ta vẫn đi làm sao ông?" Anh cán
bộ đang ưu tư, có vẻ lười trả lời, nhưng cũng cố gắng: "Đó là
những anh hùng lao động, biết phấn đấu gian khổ cho đại thế giới
cách mạng vô sản, các anh chỉ biết hưởng thụ nên không thấy cái
cao cả trong chính sách của đảng, của nhà nước chúng tôi, từ
thực tiễn đến nhận định là thế, tức là những anh hùng công nông
của Trung Quốc, trước kia cũng ích kỷ nhỏ hẹp như các anh, nghĩa
là đặt quyền lợi cá nhân trên cái sống tập đoàn thương yêu.
Nhưng nhờ lao động, họ đã ý thức được công trình vĩ đại cao cả
của Đảng và nhà nước Trung Hoa".
Tôi lạnh mình ý nhị liếc sang người
bạn thầm nói: "Gớm! Tên này ý hẳn cũng vài mươi tuổi đảng chứ
chẳng vừa với những mỹ từ giả dối mà có khả năng lấp khóe mắt dò
xét của con người, đâu phải là thứ thường". Tôi buồn cười bởi
cái phô trương của anh cán bộ. Anh ta nói mà trong ánh mắt dường
như ẩn hiện một nỗi lòng khó tả được tiềm ẩn như trong cái thế
nén của chiếc lò so bất lực.Có lẽ anh ta mơ tưởng đến những thú
vui của thời thơ ấu. Đầu năm vẫn là những ngày thiêng liêng nhất
của người thuần tuý Á Đông. Con người vẫn là con người, chứ
không phải là hệ thống máy móc để có thể dễ dàng giết chết cái
tập tục truyền thống của dân tộc có từ muôn đời xa xưa được.
Đoàn xe vẫn tiếp tục lăn bánh, hai
bên đường không một mảnh đất hoang, dù là khô cằn sỏi đá, đều
được cày xới trồng trọt. Tôi rùng mình nghĩ đến phần đất màu mỡ
của quê hương miền Nam Việt Nam, là vựa thóc của Đông Dương, nên
hẳn nhiên là miếng mồi quá thơm ngon đối với Trung Hoa lục địa
vĩ đại đầy nhân khẩu mà nạn nhân mãn là mối đe dọa trầm trọng.
Mãi miên man suy nghĩ, xe chạy vào
trung tâm thành phố mà tôi không hay. Khu nội thành cũng vậy, có
nghĩa là những hình thức phấn đấu gian khổ đã đồng lõa với sự áp
bức, để cho người dân lầm than khổ đau của Trung Hoa ngày nay,
phải câm lặng khứng chịu tất cả những tàn phá do chính sách đảng
trị nhiễu nhương tác quái... Tôi nhìn đoàn người trên phố, họ đi
từng toán trên đường, với y phục giản đị, đồng nhất được khoác
lên những tấm thân còm cõi vốn có của người Quảng Đông. Họ trầm
lặng quá, đúng như người ta bảo "người Cộng sản thầm lặng như
chiếc bóng", thỉnh thoảng có vài thiếu niên đốt lên vài cây pháo,
và đó chính là dấu hiệu duy nhất đón Tết qua đôi mắt trung thực
của tôi.
Tôi viết những sự thật này, cũng
như có lần tôi đã viết bài "Mùa Xuân của Quảng Châu", khi còn bị
giam ở bên Trung Quốc, nội dung cũng như thế này. Và được các "đồng
chí" bên đó nói rằng: "Anh có nhận xét thiếu tinh tế và tư tưởng
xuyên tạc, nên cảm nghĩ của anh về mùa Xuân Quảng Châu còn đầy
tính chất châm biếm, thiếu sự giáo huấn chính trị ... "Vâng, tôi
không thích chính trị, tôi chỉ thích những nguồn sống thực,
những ngôn từ tôi nói phải phát xuất từ đáy lòng, chứ không phải
từ những chiêu bài chính trị.
Đoàn xe vẫn từ từ lăn bánh, dường
như họ muốn chúng tôi quan sát cái trung tâm của một thành phố
được gọi là lớn vào hàng thứ năm của Trung Cộng. Tôi mỉm cười
nhìn những khu chung cư cao ngất "nếu không ở trên đám mây xanh
ấy, thì họ sẽ phải ở đâu!" Với tôi, đừng phô diễn cái trò tuyên
truyền trẻ con này, vì phải chăng đây chính là "nguồn gốc phát
sinh ra chính sách xâm lược để tự tồn".
Những con đường phố ở đây hẹp và
dây điện rối mù như mạng nhện, phương tiện giao thông chính yếu
là xe buýt điện và xe đạp, tuyệt đối không có một chiếc xe gắn
máy nào. Người bạn bên cạnh hỏi anh cán bộ thông dịch:
"Ông ơi, ở bên này không có xe
Honda, Yamaha, hay sao?"
Anh cán bộ ngẩn người: "Honda là gì?"
Tôi giải thích: "Đó là một loại xe chạy bằng động cơ, giống như
chiếc xe bình bịch ấy." Anh cán bộ nhún vai: "ừ, thế thì bên này
chúng tôi không thèm cái loại xe vô dụng đó, vì nó có tính cách
tư bản lãng phí quá, cũng như nó không sản xuất mà lại còn làm
hao hụt nhiên liệu của nhà nước nữa..." và cũng để tỏ ra mình
cũng thông thạo về vấn đề quốc tế, "đồng chí" theo thao bất
tuyệt về tình hình căng thẳng ở Trung Đông và sự tranh chấp
giành quyền lợi giữa Nga và Mỹ... Tôi không cần nghe anh ta nói
gì cả, bởi những lời bào chữa để thỏa mãn tự ái cá nhân đều vô
dụng. Tôi cũng không nêu lên cái tính chất quê mùa của cuộc đối
thoại, mà chỉ cần biết rằng anh ta đã bày tỏ trung thực cái hệ
thống kiểm thảo nghiêm ngặt của đảng và nhà nước, để đến nỗi một
cán bộ như anh ta mà còn không biết được cái xe thông dụng ấy,
thì huống hồ chi người dân chân lấm tay bùn, sinh ra trong lao
động và chết trong lao động sẽ còn nhận thức được gì ánh sáng
văn minh của nhân loại, đối với họ chỉ được dạy dỗ rằng: "Chỉ có
Mao-Trạch-Đông là hoàn mỹ ..."
Đoàn xe ra khỏi thành phố, tôi thấy
một quân trường ló dạng qua khung cửa kính và đoàn xe từ từ rẽ
vào, hai cánh cổng mở rộng, những tân binh đứng đầy hai bên
chiếu cố nhìn chúng tôi tận tình.
"Không, bởi chúng tôi xuống đảo nên
ăn bận lôi thôi thế này, chứ không phải quân đội chúng tôi có
cái ăn bận như cái bàn tán xì xào của các người đâu, còn các anh
em Địa-phương-quân, sở dĩ tóc họ quá dài là vì ba tháng liền ở
đảo không có thợ hớt tóc, chứ quân đội chúng tôi không đồng hóa
với Hippy đâu." Tôi bực bội nghĩ thế khi thấy ánh mắt diễu cợt
của đám tân binh. Chúng tôi xuống xe và tập họp trước cái sân
rộng lớn, nơi đây có hơn hai mươi cán bộ đứng đợi sẵn, họ mặc
quân phục gồm có hải quân và bộ binh, tôi đoán có lẽ đây là nhóm
khai thác tù binh. Chúng tôi được chia làm bốn tổ, tổ một và tổ
ba là Địa-phương-quân, tổ bốn là sĩ quan, và tổ hai là hải quân.
Sau đó, họ hướng dẫn chúng tôi đến một dãy nhà dành sẵn, chỉ
định những khu vực của tổ và phát những vật dụng cần thiết.
Sau mấy thủ tục tạp nhạp, chúng tôi
được dẫn đến một phòng họp, và tại nơi đây một đề tài được giáo
huấn cấp thời: "Chủ quyền lãnh thổ của Trung Cọng trên hai quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa", nội dung nói về những di tích lịch
sử của người Trung Quốc để lại đảo, và họ nói nhiều về những vua
chúa đã đem quân chiếm đảo ... cuối cùng, họ xác nhận chủ quyền
bằng lập luận: "Trung Quốc muốn thì làm chứ không cần ảnh hưởng
gì của quốc tế, quốc tế chỉ là con số không nếu đi ngược lại
quyền lợi của đảng và nhà nước Trung Hoa".
Trước khi rời phòng, họ chận đầu
chúng tôi: "Các anh nghe theo lời đường ngọt của ngụy quyền Sài
Gòn nên cứ tưởng Hoàng Sa là quê hương mình, điều đó thật là lầm
lẫn, lầm lẫn về sự thực đã đành mà còn hy sinh một cách vô lý
nữa!"
Về đến tổ mình, chúng tôi phải tụ
tập lại để "tọa đàm" dưới sự hướng dẫn của ba cán bộ trách nhiệm
tổ, trong khi tọa đàm các tổ viên có quyền phát biểu, tuy nhiên
cán bộ luôn nhắc nhở "phải phát biểu những gì khách quan, đứng
đắn, chứ không phủ nhận sự thực bằng thái độ ngoan cố, vì đây là
lúc chỉnh đốn lại sai lầm chứ không phải là cuộc tranh luận chưa
có mục đích rõ rệt ..." Trong cuộc "tọa đàm" đầu tiên này, chúng
tôi không ai phát biểu gì hết, một cán bộ có vẻ tâm lý, kéo hai
người bạn đứng dậy và nói: "Vì hôm nay các anh tinh thần còn
căng thẳng và mệt mỏi, nên chúng ta tạm ngừng ở đây." Trong nhóm
không ai có ý kiến gì cả, chúng tôi muốn yên thân hơn là phải
nói một điều gì.
Khoảng mười hai giờ trưa, chúng tôi
tập hợp đi ăn cơm, bữa cơm tạm thời khá đầy đủ cho buổi sơ giao
của chính sách tuyên truyền - "Hôm nay, ngày đầu năm của người Á
Đông chúng ta, Đảng và nhà nước chúng tôi lấy bữa cơm này là kết
tinh của lao động để đón mời cũng như khuyến khích các đồng chí,
cứ tự nhiên hưởng xuân và sẽ dành được thắng lợi cho đại thế
giới cách mạng vô sản."
Tôi mỉm cười, quả nhiên do kết tinh
của lao động, nhưng đảng và nhà nước đâu có lao động! Chỉ những
công nông là những anh hùng biết lao động! Lòng bảo lòng, thôi
cứ hưởng thụ đi, nếu đã tốt đẹp thì bố mẹ, họ hàng ta đâu di cư
vào Nam!
Họ đứng chung quanh bàn ăn chúng
tôi, ân cần chuyện trò, hỏi han: "Sao, cơm Trung Quốc ngon không?"
... Tôi cười thầm trong bụng "Nếu cứ thế này cho vài năm thì hay
biết mấy! Chỉ sợ bữa một bữa hai rồi đổi món". Một cán bộ có vẻ
rất trí thức và cao ngạo, một tay chống nạnh, một tay vân vê
điếu thuốc, cười nửa miệng, hóm hỉnh nhìn chúng tôi - "Cao ngạo
trong sự đương nhiên của kẻ chiến thắng, thì cái thất thế phải
đến cho đối thủ, làm quân tử sao cho là nhục!" Tôi thầm nghĩ như
vậy.
Sau một bữa ăn cho bỏ ghét, có giỏi
thì cứ nuôi như thế này mãi đi, còn không đủ khả năng thì cứ
thực tình cung khai tám trăm triệu nhân khẩu ra thì có ai bảo
sao đâu!
Trước khi về tổ, một cán bộ tập họp
chúng tôi lại và nói: "Sau khi quan sát và nhìn chung vào vấn đề
ăn uống của anh em hôm nay, tôi thấy anh em có nhiều lỗi làm cần
phải tự sửa chữa, đó là sự phung phí của anh em. Anh em không
biết cái tiêu chuẩn chống lãng phí của đảng và nhà nước, hãy
nhìn xem trên mặt bàn của tám người ăn đầy những hạt cơm vung
vãi thế kia, nếu tám trăm triệu người Trung Quốc mà ăn uống như
các anh thì hơn tám trăm triệu hạt cơm rơi ấy sẽ nuôi được bao
nhiêu người đó!" Tôi ớn xương sống, quả thật, những thằng đói nó
có lý luận hay, cả đời chúng chỉ nhìn vào nồi cơm, rá gạo huyền
nào mà chẳng tinh thế!
Chúng tôi về tổ nghỉ ngơi, hai giờ
chiều, một sĩ quan quản gia đến đánh thức chúng tôi và cho biết
sẽ phải "tọa đàm" tiếp đề tài hồi sáng. Chúng tôi thinh lặng rất
lâu, một cán bộ lên tiếng "Anh em cứ tự nhiên phát biểu ý kiến,
vì đây là cuộc tranh luận, không sao cả." Một anh bạn của chúng
tôi rụt rè hỏi: "Thưa đồng chí, theo đài BBC Luân Đôn, Vua Gia
Long đã đem quân trú đóng ở Hoàng Sa vào năm 1802 ..." Vừa nói
tới đây, thì anh cán bộ đưa tay ngăn lại "Các anh em thật là lạ,
tại sao đài mình không nghe, lại đi nghe cái đài xuyên tạc đó,
bên chúng tôi không bao giờ nghe đài nào khác ngoài đài Bắc
Kinh, nên không bao giờ lầm lẫn như thế. Còn cái vấn đề đồng chí
Gia Long nào đó cho có quân lính Việt Nam ra trú đóng đảo vào
năm 1802 thì thật không thể tin được, vì sử sách Trung Quốc
không hề ghi chép điều đó. Bởi vậy, đây là lần đầu tiên, cũng là
lần cuối cùng, anh em đừng nhắc nhở đến Vua Gia Long nữa."
Anh ta nhìn sang phía khác: "Anh em
bên này có ý kiến nào không?", rồi quay ra mỉm cười đắc ý với
hai cán bộ ngồi đằng sau, dường như anh ta thỏa mãn với câu trả
lời vừa rồi lắm. Tôi thấy hai tên kia cũng nghiêm mặt gật gù,
áng chừng như đã bằng lòng. Chúng tôi lặng thinh và hầu như
trong mấy ngày đầu chúng tôi không hề muốn nói gì cả. Mấy anh
cán bộ có vẻ sốt ruột bởi sự lặng thinh của chúng tôi nên hơi
cau có:
"Sao các anh em không nói gì cả?
Đây là tọa đàm chứ không phải là mơ mộng viển vông, nếu cứ như
tình trạng này thì các anh em làm sao thông suốt được đường lối
lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ Tịch và nhận thức thế nào là đúng
đắn, thế nào là sai lầm."
Chúng tôi cảm thấy tình trạng trở
nên nhột nhạt nên lặng lẽ nhìn nhau ... cùng cười, đến một lúc
nào đó, con người phải trở về với bản tính cố hữu của mình, cho
dù có phải trên búa dưới đe. Tôi ít khi chịu khuất phục trong
vấn đề tranh luận ...
Tôi hắng giọng hỏi: "Thưa các ông,
sau bản hiệp định San Francisco năm 1951, 49 quốc gia đều xác
nhận chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, mà Trung Quốc
cũng không phủ nhận bản hiệp định trên. Đến nay phải chăng Trung
Quốc phát hiện được ở dưới lòng đảo có một tài nguyên thiên
nhiên nào nên ngày nay Trung Quốc ..." Còn đang nói dở, thì tên
cán bộ quắc mắt nhìn tôi. "Ai bảo với anh như thế, nếu còn giữ
mãi cái nhận thức này thì ..." Một tên có vẻ khôn ngoan trầm
tĩnh hơn khẽ kéo tên kia ngồi xuống và nói: "Các anh bị nhiễm tư
tưởng Đế-Quốc Mỹ, cũng như ngụy quyền Sài Gòn quá nhiều, nên
những ý tưởng sai lầm rất nhiều, nhưng chúng tôi tạm thời coi đó
như là lỡ lầm đầu tiên và bây giờ các anh phải chú ý đừng phát
ngôn những gì xâm phạm đến quyền lợi của đảng và nhà nước chúng
tôi.
Tôi nghe trong mình những mạch máu
tưởng chừng như dừng lại, vì đây cũng là lần trắc nghiệm cái
phản ứng của chúng. Tôi biết chúng phải chinh phục chúng tôi
bằng vuốt ve hơn là bạo tàn, có lẽ lệnh ở trên chỉ thị như thế
...
Rồi hai tuần trôi qua trong chán
chường của những đề tài và tọa đàm liên tục không lúc nào ngơi.
Tôi không hiểu tại sao chúng tôi lại phải siêng học gấp gáp quá
sức, sáng học tập tới 10 giờ, rồi tọa đàm đến 12 giờ, ăn cơm
trưa xong ngủ được một chút lại tiếp tục tọa đàm đến giờ ăn cơm
chiều, xong giờ cơm chiều bắt đầu coi sách báo và tư tưởng Mao
Trạch Đông ... Tối đến đi coi xi-nê xong tọa đàm đến 11 giờ mới
được đi ngủ ... Ngày nào cũng thế, ở đây đời sống chung không có
ngày chủ nhật, một ngày lao động như mọi ngày là lao động để
sáng tạo thế giới ... Về vấn đề xi-nê, chúng tôi sợ còn hơn là
cơm nếp nát, cứ những phim với nội dung đấu tranh giai cấp, tăng
gia sản xuất, các thời sự về mối bang giao của tranh giai cấp,
tăng gia sản xuất, các thời tự về mối bang giao của Trung Quốc
hoặc những phim chiến tranh chống Nhật, những trận đánh du kích
của thuở tiền cách mạng với ngụy quyền Tưởng-Giới-Thạch ...
Có một lần, tôi bạo dạn hỏi: "Thưa
đồng chí, coi những phim như thế này mãi đồng chí có chán
không?" Một cán bộ cười trừ: "Không, tuy hình thức và nội dung
chúng giống nhau, nhưng nó nâng cao tư tưởng bằng cách mình luôn
luôn nhớ mãi cái tàn ác của những gì đi sai lạc đường lối của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, như các anh thấy trong phim
Bạch-Mao-Nữ hôm qua đó, với phim Nữ-Hồng-Quân hôm nay, anh thấy
không, những chuyện kể lên những tàn bạo, dã man của tập đoàn
phản động đế quốc Mỹ và các bọn tay sai có bao giờ hết đâu ...
bởi thế, càng coi càng thấy thích thú, càng thấy cái nhân đạo
của vầng hồng cách mạng... "
Tôi mỉm cười: "nhưng thưa đồng chí,
đã gọi là nghệ thuật thì phải trả cho nó về đúng với các thuần
tuý của nó chứ." Tên cán bộ hỏi: "Anh tin có nghệ thuật, vì nghệ
thuật?" Tôi gật đầu: "Đương nhiên là thế! Tên cán bộ cười khảy:
"Không, anh lầm lẫn rồi, không bao giờ thế, không bao giờ có cái
nghệ thuật siêu giai cấp, mà nghệ thuật chính là công cụ chính
yếu để phục vụ cho đồng chí phần nào cái sự thực của sự lạm dụng
nghệ thuật, chứ nghệ thuật vẫn là thuần túy nghệ thuật, nó vẫn
là thế giới tách biệt riêng rẽ bởi nó khách quan và trung thực
..."
Tên cán bộ cười khan trong cổ không
trả lời, tôi buồn cười cái nghệ thuật qua cái trận đánh mìn và
đánh sạn đạo với tụi Nhật cũng như quân đội của Trung Hoa Quốc
Gia, cứ chỗ nào có mìn thì bảy tám tên Nhật hoặc lính Trung Hoa
Quốc Gia liền bước vô và chỉ cần vài trái mìn là cả một đại đội
Nhật hoặc Trung Hoa Quốc Gia chết như rạ...
Nói chung là những phim tuyên
truyền quá lố đã đành mà còn đồng hóa người ngồi coi thành một
sự ngu độn không tưởng ... tôi không hiểu những cán bộ họ có
thực sự thỏa mãn với những phim như thế hay không hoặc muôn đời
sự giả tạo này khoác lên đầu môi mép mỏ để mê muội cái dân trí
800 triệu người mà chỉ có 19 vạn sinh viên.
Tôi hiểu cái thâm ý của họ qua cuốn
phim "Thi đua phong trào học tập Công Xã Đại Trại", Công xã đại
trại là một công xã phải nói là bất hạnh được thiết lập trên vị
trí thiên nhiên đầy đồi núi sỏi đá khô cằn. Nhưng có một tên bí
thư Đảng đã hô hào toàn thể nhân dân trong xã hãy phấn đấu gian
khổ để khắc phục thiên nhiên bằng cách lấy sức mạnh của những gì
còn lại nơi con người, đục bằng phẳng trái núi, rồi gánh đất đổ
lên đó trồng lúa, sau bao gian truân khó nhọc, cuối cùng họ
thành công. Và một điều lạ lùng hơn nữa là năm đó Đại Trại lại
được mùa hơn tất cả mọi công xã khác, tôi vô cùng xúc động khi
thấy ánh mắt bừng vui của toàn thể nhân dân trong xã nhảy múa
vui mừng bên khúc ca được mùa ...
Nhưng xúc động vui lây với sự khó
nhọc của họ chợt se lại khi thầy từng xe Molotova chất đầy những
bó lúa vàng ánh như giọt mồ hôi phản chiếu cái thiếp vàng của
khung ảnh Mao Trạch Đông treo trên bức tường ... Vâng, muốn sống
trong sức lao động của người để mà hưởng thụ thì điều kiện tiên
quyết là phải giết đi cái tri thức mà những ngày tháng lam lũ
trong lao động đã khiến con người như quên đi cái quyền lợi bản
thân ...
Hôm nay, chúng tôi được đưa đi tham
quan xưởng chế tạo xe đạp, nhà máy cơ khí hạng nặng cũng như
tiện nghi ăn ở của tất cả công nhân. Trước tiên là nhà máy cơ
khí, chúng tôi được quan sát những hệ thống máy móc tương đối
khá vĩ đại, nhưng tiếc rằng tôi chẳng thu thập được gì ngoài
những tư tưởng Mác Lê-Nin, Staline, Mao-Trạch-Đông dán đầy trên
tường cũng như mỗi lần nghe một nhân viên hướng dẫn của nhà máy
nói: "Đây là kết quả của đường lối lãnh đạo sáng suốt của ..."
là tôi đã chán đến buồn ngủ. Vâng, tôi không phải là hạng người
sinh ra để ca tụng một con người, không có ai là thánh sống đối
với tôi hết, tôi cười ruồi khi nghĩ đến chiến tranh giai cấp của
họ. Vậy giai cấp là gì khi há miệng ra là Mao Trạch Đông, nằm
ngủ cũng mơ thấy Mao Chủ Tịch ...
Bây giờ thì đi thăm khu bệnh viện
của nhà máy, tương đối tiện nghi và rộng rãi, nhất là sự rộng
rãi chúng tôi phải công nhận. Có hơn 50 giường bệnh nhân, mà chỉ
tiếc rắng công nhân của hãng này ít người bệnh quá, tôi chỉ thấy
có vài ba người dưỡng bệnh, mặc dù có hơn 5,000 công nhân làm
việc cho xưởng. Nhưng tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy cái
ngôi sao đỏ trên nón của một bác sĩ đang chẩn bệnh cho một ông
cụ già gần đó ...
Chúng tôi đi thăm các khu chung cư
của xưởng, vào từng nhà một tôi thấy các cán bộ luôn luôn có cái
thâm ý bắt chúng tôi chú ý đến cái máy thâu thanh (đặc biệt có
đài Bắc Kinh), cái xe đạp (loại khung đàn ông và theo tôi hiểu
đó là hình thức cơ giới hóa lao động hơn là để đi chơi), và cuối
cùng là cái máy khâu ... đại khái nhà nào cũng được trang bị như
thế (cái vấn đề tài sản này có phải của gia chủ hay không thì
chỉ có Trời biết).
Cuối cùng, đi thăm vườn trẻ, trong
cuộc thăm viếng này, có một hoạt cảnh hai toán chơi trò bắn
nhau, một đám bị thua, đám kia bắt đầu hàng. Nhưng đám kia nói:
"Mao Chủ Tịch dạy ta không hàng ..." Tôi nhục quá, cúi đầu lặng
thinh. "Vâng, chỉ những đứa trẻ nó mới mơ mộng siêu việt như vậy
thôi, còn con người nếu có đầy đủ tri giác ai mà không có những
yếu đuối của bản thân cũng như cam chịu những bất hạnh phải
đến."
Chúng tôi chấm dứt cuộc tham quan
tại đây để sang xưởng chế tạo xe đạp, ban đầu chúng tôi nghe
đồng chí Giám đốc thuyết trình về quá trình phát triển của hãng
sau 3 lần kế hoạch kinh tế ngũ niên. Theo ông ta cho biết thì
hãng bắt đầu từ năm nay sẽ sản xuất 2,000 chiếc xe mỗi ngày ...
cũng như ông ta nói nhiều đến những lời khen của Mao Trạch Đông
trong những lần viếng thăm xưởng ...
Cuộc thuyết trình được chấm dứt sau
một loạt vỗ tay tỉnh ngủ của chúng tôi, sau đó bắt đầu tham
quan, tôi phải thú nhận những chiếc xe đạp của họ rất đẹp và
tiện lợi, có thể co rút cao thấp hay ngắn dài ... Nhưng có điều
tôi thắc mắc là tại sao họ làm được như vậy mà lại chẳng hưởng
thụ. Tôi xin thề là cả trong cái trung tâm của một thành phố,
xét về lượng còn lớn hơn cả Saigon mà không hề thấy có một chiếc
xe đạp nào đẹp như thế để đi học hoặc để đi chơi. Duy chỉ có
loại xe đạp thồ, tức để chở đồ ... Rồi cuộc tham quan này chấm
dứt sau một bữa ăn tương đối thịnh soạn của xưởng ưu ái đãi ngộ
tù binh ...
Trên đường về cũng như buổi tối hôm
đó nhức đầu vì những cảm tưởng của cuộc tham quan, chúng tôi có
nói hay thì cũng phải diễn giải cái hay ở chỗ nào, còn nói dở
thì thật khốn nạn bởi ta không có nhiều lỗ tai mà nghe cho kịp
6-6 cái miệng ...
Hôm nay đề tài mới "Phong trào phê
phán Khổng Tử và Lâm Bưu". Tôi không ngờ họ lại nhục mạ một con
người mà đã đưa cái kiến thức của mình để tác tạo cho một Trung
Hoa với một lần vàng son trong lịch sử văn minh loài người, tôi
cứ tưởng họ cũng phải tôn trọng phần nào cái minh thuyết vĩ đại
ấy chứ. Đúng là tiến hóa, tiến đến độ cực đoan của con người.
Một cán bộ bảo: "Thằng Khổng lão
nhị có làm cho một Trung Hoa đầy những liệt cường xâu xé, đầy
những bóc lột như Từ Hy Thái Hậu ..." Tôi chợt nghĩ, thế thì quá
sức sai lầm, sự suy vong của một quốc gia cũng như cái biến hóa
thăng trầm của hoàn vũ chứ đâu do cái nền tảng tư tưởng của nước
đó làm sụp đổ ... Tại sao Nhật Bản họ cũng lấy Nho học làm nền
tảng sao không sụp đổ mà lại trở thành một cường quốc nắm đầu về
kinh tế như ngày nay. Không, Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ cũng như
lấy cái kinh nghiệm của Đảng cộng sản Nga Sô, sau mấy chục năm
trời đã nhận thức thế nào là thiên đường cộng sản để rồi phải đi
đến giai đoạn "xét lại chủ nghĩa" mà Mao Trạch Đông cho là: "Hữu
danh là Cộng sản mà thực chất là Tư Bản".
Tôi nhớ lại cái khuôn mặt đanh lại
của tên thủ lãnh khi nhắc đến câu nói của Kroutchev: "Có vũ khí
hạt nhân rồi thì chiến tranh nhân dân chỉ là đống thịt người: "Câu
nói này đã minh chứng thế nào là cộng sản Nga Sô và thế nào là
cái giá trị của Lâm Bưu trong cái mơ hồ, ngoan cố của thiên
đường cộng sản. Tôi tiên đoán trong những ngày cuối cùng của sự
già nua, có lẽ rồi Mao Trạch Đông sẽ được cái hân hạnh của hàng
bao những Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ đứng lên từ giai cấp công nhân
lật đổ cái vàng son hiện hữu để tái tạo một Trung Hoa với quyền
sống của con người ...
Tôi không bao giờ quên được cái
khuôn dáng và cái bản chất chân thực thuần túy Á Đông của một
ông Sĩ quan quản gia chăm sóc chúng tôi và một binh sĩ nấu ăn.
Họ đúng là người Trung Hoa thực sự đúng nghĩa nhất. Bởi phải
chăng cái bản chất của con người vẫn là của con người, mặc dù có
sống trong giả tạo của môi trường sống bịp bợm. Tôi nghĩ chỉ bấy
nhiêu đó thôi cũng nói lên phần nào sự suy luận khách quan của
mình về người dân Trung Hoa, họ sống như vậy đã đành, đến khi
chết vẫn không được toàn thây. Xác họ phải đốt thành tro và cái
mớ tro tàn cuối cùng đó có tác dụng gì trước cái luận lý thực
tiễn của một lục địa vĩ đại thiếu màu mỡ ...
Tôi rùng mình sợ hãi như nhớ đến sự
ghê tởm của cuốn phim mà Cộng sản Trung Hoa Lục Địa cho là
"Những nghệ thuật của Lao động" khi đào các mồ mả của những vị
vua chúa đáng gọi là những bậc minh quân của Trung Hoa để kiếm
tìm những di vật để lại theo cổ truyền mà nói lên cái bàn tay
khéo léo của lao động cũng như gây lòng căm thù trong đám quần
chúng u mê trước các vị tiền nhân của một nền văn minh huy hoàng
đã sụp đổ.
Thời gian thấm thoát trôi qua,
chúng tôi đã hít cái bầu không khí của vầng hồng cách mạng này
hơn ba tuần lễ. Hôm nay tôi thấy họ có những khuôn mặt đăm chiêu
tư lự, tôi nghĩ thầm lại một biến cố gì chăng. Và quả nhiên,
chúng tôi được tập họp cấp thời tại phòng ăn. Trong phòng đã
được trang trí tươm tất với hàng bàn ghế có khăn trải trắng
tinh. Tôi khựng người lên vì cũng cái khung cảnh như thế này mà
một Đại úy Mỹ, 5 người tù binh bị thương đã về đợt trước. Tôi
còn nhớ cũng vì có người Mỹ mà bao nhiêu cán bộ quắc mắt, xừng
xộ nắm tay giá vào mặt tôi khi tôi hỏi: "Thưa các ông, tại sao
lại thả người tù binh sớm như vậy? Phải chăng Trung Quốc sợ áp
lực của Đế Quốc Mỹ?" Thú thật hôm đó thấy chúng làm dữ quá tôi
phải xin lỗi để thỏa mãn tự ái của chúng, tôi ngoan ngoãn chăm
chú lắng tai nghe chúng thuyết về "Đế quốc và tập đoàn phản động
là con hổ giấy".
Còn đang ưu tư thì một cán bộ đứng
lên hô "Nghiêm". Tất cả chúng tôi giựt mình đứng dậy, vị thủ
lãnh cùng toàn thể cán bộ Trung Ương Đảng trại Thu dung Tù binh
Quảng Châu ngồi xuống hàng ghế danh dự. Sau đó, phái đoàn báo
chí cũng như đài vô tuyến truyền hình tới quay phim, chụp hình
lia lịa. Và toàn thể toán tù còn lại của chúng tôi đứng tim khi
nghe xong bản tuyên bố của bộ ngoại giao Trung Cộng nói với nội
dung: "Đúng 12 giờ trưa ngày 17-2-1974, Trung Quốc sẽ trao trả
toàn bộ 43 bù binh còn lại cho Ủy Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế tại
Hồng Kông ..." Rồi tất cả chúng tôi dự một buổi phát
biểu cảm tưởng tự do với đầy đủ kẹo bánh, trái cây trên bàn.
Những giờ phút cuối cùng này, chúng tôi thực tình cởi mở ... Tôi
phải bị đề cử lên hướng dẫn 43 tù binh ca bài Việt Nam Trung
Hoa, nội dung bài ca này nói đại khái Việt Nam Trung Hoa nối
liền núi sông, liền sống chung một biển đông mối tình hữu nghị
sáng như rạng đông ... Và từ đáy thẳm tâm hồn, tôi cũng ao ước
rằng bao giờ không còn sự tranh chấp của ý thức hệ, tất cả những
người da vàng đoàn kết lại một khối với tình thương yêu đồng
chủng để sống mãi với bản chất cần cù đôn hậu của người Á Đông
...
Một cán bộ có lẽ bị xúc động với
những gì bản nhạc đã đứng dậy nói: "Thưa các bạn, thưa các đồng
chí. Tôi ao ước rằng ngày này các bạn sẽ trở lại thăm chúng tôi
với một tư cách khác nghĩa là khi MTGP miền Nam của các bạn
thành công, lúc đó tôi sẽ ..." Rồi dường như xúc động quá, hắn
nói không nên lời. Chúng tôi đang vui trong cái tình cảm của con
người bỗng tư tưởng chính trị nhảy vào làm xìu bao nét mặt. Anh
chàng này thiệt ấm ớ quá, sao anh không vui bằng những gì bộc lộ
của tình cảm, và anh đâu có biết chúng tôi đang sung sướng vì
sắp trở về với gia đình. Các anh cười chúng tôi khi mỗi lần nhắc
tới gia đình là chúng tôi rưng lệ. Vâng, gia đình là nền tảng
của xã hội, chúng tôi bằng an trong mái ấm gia đình hơn là sống
trong chủ nghĩa quá mơ hồ khó thực hiện ...
Kìa anh thấy không, vị thủ trưởng
cũng xìu nét mặt vì cái ý thức chính trị không đúng chỗ của anh
rồi đấy. Vâng, trong niềm vui của ông ta, tôi chắc chắn không
phải hoan hỉ vì chính sách khoan hồng tù binh đâu mà tôi tin
chắc rằng ông ta đang chung vui bằng cái niềm vui của chúng tôi
nghĩa là sự đoàn tụ của gia đình. Anh kém tinh tế quá, đúng là
cán bộ hạng bét, anh nhìn kỹ đi, anh sẽ thấy sau những chớp mắt
kia, ông ta đang mơ mộng đấy. Ông ta thấy mình cũng vào trường
hợp như chúng tôi và đôi mắt đẫm lệ của người vợ hiền cùng bày
con thơ như đưa ông vào nỗi xúc động không cùng ...
Vâng, đó mới là nguồn sống ông nghĩ
thế và ngoái cổ nhìn xung quanh, ông ta không thấy một dấu hiệu
nào mừng đón của Đảng mà chỉ có vợ con ông cùng một bà cụ già
bên cạnh người mà trước kia ông từng cho là ngoan cố lạc hậu...
Nhưng anh đồng chí ấm ớ ơi, anh đã thức tỉnh giấc mộng đẹp của
ông ấy rồi, anh đã lôi ông ấy về với chức phận một cán bộ cao
cấp của cục trung ương Đảng Bắc Kinh, để ông ấy sắp sửa lại phải
che đậy những tình cảm cao quý của bản thân mà giáo huấn những
điều chính ông cũng cảm thấy dư thừa, không hợp lý. Nhưng anh
đồng chí ấm ớ ơi, tuy anh là cấp dưới mà anh vừa chiến thắng
được một thượng cấp đấy và ngược lại anh đã làm cho ông ấy nổi
giận, kể từ ngày mai anh phải coi chừng và đừng nghĩ mình phải
bị la rầy một cách vô lý ...
Tôi nhìn lại chiếc giường lần cuối
cùng, đêm qua đã mất ngủ để chuẩn bị đồ đạc cũng như tâm sự vụn
với đồng chí quản gia người mà tôi thích nhất vi ông ta đúng
thực là một người Tàu chất phác, chân chính, hiếu khách và tốt
bụng. Các cán bộ cũng thức dậy thật sớm để thi hành nhiệm vụ
cuối cùng sau hơn ba tuần lễ miệng lưỡi Tô Tần chinh phục bọn
tôi.
Chúng tôi được đưa lên xe buýt chở
lên nhà ga xe lửa Quảng Châu, sau đó, một toa xe hạng nhất dành
sẵn cho bọn chúng tôi. Chúng tôi lên xe, và nơi đây có Hội Hồng
Thập Tự Trung Cộng săn sóc cũng như yêu cầu chúng tôi có những
điều kiện gì muốn nói với Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế thì họ sẽ
chuyển lời. Chúng tôi không ai có ý kiến gì cả. 10 giờ ngày
17-2-1974, xe đỗ ga Thẩm Xuyến, chúng tôi được đưa lên một khách
sạn và ăn bữa cơm cuối cùng gọi là tiệc ly. Sau đó, chúng tôi
được dẫn đến một phòng đợi tại đầu cầu biên giới. 12 giờ Hội
Hồng Thập Tự Quốc Tế sang nhận lãnh. Rồi chúng tôi lặng lẽ bước
qua cầu...
Vừa sang bên cầu, chúng tôi được
ông Đại sứ Việt Nam tại Hồng Kông tiếp đón, ông nói: "Nhân danh
là một Đại sứ của tòa lãnh sự Hồng Kông, tôi thay mặt cho chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa hân hoan chào đón những anh hùng ..."
Chúng tôi, 43 người bật khóc. Vâng,
không hiểu tại sao mình lại xúc động đột ngột như vậy, một khơi
động nào đã làm nguồn tình cảm dạt dào miên man trôi theo giòng
lệ. Tôi thấm nước mắt leo lên xe buýt về phi trường Hồng Kông.
Nơi đây, vị Tư Lệnh Phó HQ, Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh tiếp đón chúng
tôi niềm nở, và khoảng 2 giờ 15 phi cơ bắt đầu cất cánh. đúng 4
giờ 25 phút, phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, một cảnh
xúc động vô cùng diễn ra, hàng ngàn người đủ mọi thành phần mừng
đón chúng tôi trở về với Tổ Quốc và mái ấm gia đình...
Tôi như lạc vào trong mơ, ngơ ngẩn
trước rừng người. Trung tướng TCCTCT thân mật bắt tay cùng phát
quà và bao nhiêu giới chức nữa, cơ hồ tôi không thể nhớ ... Tôi
gặp lại đầy đủ thân nhân cùng bạn bè mừng mừng tủi tủi sau bao
ngày trông tháng đợi ...
Bây giờ hồi tưởng lại bao ngày gian
lao qua đi, tôi chợt thấy mình trong cái rủi lại có một cái may,
may là mình đã được diễm phúc chui vào cái hỏa ngục vĩ đại mà
trước một áp lực nào, bọn quỷ đỏ đã phải buông tha. Chúng tha
trong nuối tiếc của kẻ khát máu mà phải nhịn để chỉ biểu lộ sự
thèm thuồng bằng câu:
"Các anh là người đầu tiên đặt chân
lên lục địa chúng tôi và cũng là những người duy nhất đầu tiên
của Ngụy quyền Sài Gòn có đến và có về. Nếu lần thứ hai trong
các anh hoặc bất cứ một người miền Nam nào chẳng may mà gặp
chúng tôi thì các anh chỉ có đi mà chẳng có đường về ..."
Vâng, các người đừng phô trương cái
khát máu của các người ra làm gì, 27 ngày thôi cũng quá đủ cho
một người dù là kém thông minh như tôi nhận thức được thế nào là
mặt thực của xã hội chủ nghĩa.
Bí Thư Thắng
Bức Thư 15 năm trước
Thời-điểm khởi đầu dự-án
*
Thư gửi các bạn Hoàng-Sa
San José ngày 19 tháng 1 năm 1989
Thưa các bạn "Hoàng-Sa",
Đã
15 năm qua đi kể từ khi chúng ta cùng dưới danh-nghĩa con dân
Việt-Nam, sát cánh bên nhau chiến-đấu bảo-vệ Hoàng-Sa.
Chúng ta, kẻ ngậm ngùi phiêu-bạt xứ lạ, người đắng cay kẹt lại
quê nhà, khó mà có dịp gặp lại đầy đủ như xưa. Vậy mà niềm nhớ
lạ thay vẫn còn giống nhau, vẫn ở đó và cuốn hút theo nhiều cơn
ác mộng trong những giấc ngủ chập chờn... Chiến-hạm xem ra rất
uy-dũng mà sao phất phơ như không thể lèo lái, lết trên bãi nửa
cát, nửa san-hô, leo lên hoang-đảo nào đâu đó...
Con tàu sét rỉ ấy không biết có được bình-thản đi hết cuộc đời
hay không[1],
nhưng nếu cứ như trong tình-trạng những năm qua, tiếp-tục mang
một cái danh định-mệnh là "Đại-Kỳ" mà được cải-biến vớ vẩn,
tân-trang sơ sài, tu-bổ sửa chữa đại-khái; hết vào ụ, lại đến
cặp cầu, nằm bến... thì cũng đã yên một bề. Các bạn và tôi,
chúng ta không được cái diễm-phúc này, vẫn có nhiều điều áy náy
không yên !
Quần-đảo Hoàng-Sa phần Đông-Bắc có đảo Phú-Lâm đã mất cho
Trung-Hoa 40 năm trước đây, phần Đông-Nam còn lại nhóm
Trăng-Khuyết có đảo Hoàng-Sa bị cưỡng chiếm trọn sau ngày
19-1-1974. Khu-vực lãnh-hải trên biển lọt vào tay quân xâm-lăng
gần tương đương với tất cả phần lãnh-thổ trên đất hồi đó của
VNCH. Tài nguyên không phải ít ỏi gì.
Hai mươi năm sau, một trăm hay nhiều ngàn năm sau nữa, người
Việt và hậu-sinh vẫn không hiểu hay hình-dung được thế nào mà
Hoàng-Sa đã mất. Anh em chúng ta ngẫu-nhiên ở đó, có hoạt-động,
có tham-dự; và hoàn-cảnh chung quanh ảnh-hưởng nhiều ít... để
trách-vụ giao-phó cho các đơn-vị chúng ta đã không thành-tựu.
Năm tháng qua mau, soi mòn ký-ức nếu như cứ lần lữa không ghi
chép lại thì tất cả sự thật lịch-sử sẽ chìm sâu trong đáy sâu
thăm-thẳm thời-gian.
Chưa có một tài-liệu, sách truyện nào viết đủ chi-tiết về
biến-cố Hoàng-Sa. Việt-sử sẽ không đầy đủ nếu như còn để một
khoảng trống cho trận Hải-chiến đầu tiên ngoài biển lớn này.
Thực sự mà nói, kể từ khi lập-quốc, chúng ta nhiều lần
giang-chiến và đôi lần duyên-chiến cách bờ vài ba hải-lý, nhưng
thực xứng-danh hải-chiến thì Hoàng-Sa là lần thứ nhất của
Việt-tộc và cũng là lần thứ nhất sẩy ra ở Biển Đông với quân-số
đôi bên tham-dự hàng ngàn người. Thiệt-hại phía Trung-Cộng có
tới cấp-bậc Đô-Đốc.
Bài học cho ta lại cay đắng vô cùng, lần đầu tiên gậy ta đã đập
lưng ta. Chúng áp-dụng sách-lược "tầm ăn dâu". Trang-bị của HQ
Việt-Nam do ngoại-viện dềnh-dàng, chậm-chạp, khác nào một thứ "trường-trận",
làm sao thắng với "đoản-binh" và thế "Tầm ăn dâu" của quân-thù.
Chúng ta không có tham-vọng làm một cuốn sử, chúng ta cũng không
có tham-vọng tự bào-chữa hay suy-tôn cá-nhân nhưng tư-cách người
thủy-thủ khi về già thúc đẩy chúng ta viết lại những gì thực, ít
nhất là thời-gian, không-gian, biến-chuyển cho chính-xác, thêm
đó là một chút đề-cập đến vai trò của chúng ta trên KTH
Trần-Khánh-Dư... Bài học lịch-sử nào cũng đáng giá trong
tương-lai mà !
Hy-vọng cuốn tài-liệu được thành-hình, mai này ta chỉ cho con
hay cháu ít dòng trong đó để chúng đọc và biết rằng cha hay ông
của chúng lúc đó bắn súng, chạy radar, lái tàu, truyền-tin hay
điều-khiển máy... Tập sách nhất-định là một mớ tài-liệu lịch-sử
và hy-vọng đủ giá-trị xứng-đáng nằm trong thư-viện như một
tác-phẩm nhỏ nhoi nhưng xác-thật và qúy-báu ghi lại khung cảnh
sinh-hoạt bé nhỏ của chúng ta trong cơn quốc-biến. Bạn Hoa-Kỳ
thì vừa bỏ rơi ta, còn anh em xa theo CS cũng ngả theo thù,
chuẩn-bị lấn nuốt trôi phần biển hương-hỏa của Tổ-tiên.
Sau này có còn ai người cảm-thông cho nỗi cô-đơn này!
Nhiều biến-chuyển lớn tương-tự có liên-hệ đến dân-tộc đã không
được ghi chép lại. Vì thế ta không lạ lùng thấy sách thông-dụng
về Việt-sử 4, 5 ngàn năm văn-hiến chỉ khiêm-nhượng qua số lượng
sách vở nhỏ mà thôi. Một chuyện tầm-thường như vụ anh đen tên
King bị cảnh-sát đánh ở
Los Angeles,
hay chuyện câu khách Michael Jackson ... đã được viết bởi hàng
chục tác-phẩm mà vẫn còn được tiếp-tục viết chưa ngừng. Hẳn các
Bạn đồng-ý cùng chúng tôi là biến-cố Hoàng-Sa không phải quá nhỏ
bé để bị mọi người Việt-Nam hôm nay và ngày mai quên-lãng.
Trong 4 chiến-hạm anh em hồi ấy, HQ.10 chìm với
nhiều bạn thủy-thủ-đoàn hy-sinh tại chỗ, HQ.5 và HQ.16 sống
ly-hương ở Phi và đã vào vũng phế-thải từ mươi năm qua. Riêng
HQ.4 Trần-Khánh-Dư, chiếc khu-trục-hạm đã già, tuy vẫn còn nổi
nhưng âm-thầm, khật khưỡng sống qua ngày dưới cái tên bạc-mệnh "Đại-Kỳ",
danh-số CSVN là HQ.3 gì đó.
Đính kèm theo đây là một vài gợi ý[2],
các bạn có thêm ý-kiến, tài-liệu hay chi-tiết gì khác cứ ghi
thêm và xin trả lại để chúng tôi tổng-hợp. Các diễn-tiến
thực-hiện sẽ được chúng tôi tường-trình tiếp theo.
Xin chúc các Bạn và gia-đình được mạnh-khỏe, an-khang,
thịnh-vượng. Xin cảm ơn trước sự đóng góp qúy-báu của các bạn.
Chúng tôi chờ hồi-âm của các Bạn.
Thân mến,
Vũ-Hữu-San
Một bạn đồng-đội tưởng-niệm
Giỗ Trận Hoàng-Sa 15 năm
19
tháng 1 năm 1989
1410 Gordy Dr.
San Jose, CA 95131
Biểu-ngữ của Vùng 1 Duyên-hải: “Hoàng-Sa Trấn - Hải-Biên Phòng.”
[1]
Cũng Nguyên Nhi, một đồng-đội cũ HQ.4, khi tưởng nhớ về
chiến-hạm lúc Ông nằm tù cải-tạo như sau: …Những ngày
cuối cùng của cuộc chiến, con tàu nằm đại kỳ ở hải xưởng.
Con kình ngư một thời lướt sóng ngăn thù ấy bây giờ đành
ngậm ngùi mắc cạn. Nó không còn cơ hội vượt trùng lưu-
vong. Nó, cũng như anh ta, nằm lại, nghẽn thở trong
chiếc thòng lọng đỏ. Sau này, anh ta viết:
Ðể khắc khoải đêm sâu
tù cải tạo
Nghe thinh không thảng thốt một hồi còi... (Nguyên Nhi, 5.2001)
Nghe thinh không thảng thốt một hồi còi... (Nguyên Nhi, 5.2001)
[2]
Bản văn đính kèm về việcgợi ý không đuợc trình-bày ở đây
vì sách không còn đủ chỗ.
Cám ơn ông Nam Ròm về nội bài viết. Tôi vẫn còn lưu giữ được Danh-sách những Quân-Nhân & Dân-Sự Trấn-Thủ Hoàng-Sa ngày cuối cùng, bị Trung-Cộng bắt làm tù-binh ngày 20-1-1974. Khi có cơ hội, tôi sẽ kính chuyển đến ông để làm tài liệu. Cali ngày 19/1/2015 -TC. Phan Văn Khải
Trả lờiXóahttps://plus.google.com/u/0/105849825111691161983/posts/F8NbeiFqNfo
Trả lờiXóa