Đi tìm bà Nhu, gặp ông Đại úy (I)
Trần Giao Thủy
Tuy nhiên, để biết bà Nhu nghĩ và viết những gì về chính trường Việt Nam thời Đệ nhất Cộng hòa, e rằng vẫn là điều không dễ tìm thấy trong cuốn La République du Viêt-Nam et les Ngô-Ðình suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu vì, theo ông Ngô Đình Quỳnh, phần hồi ức của bà Nhu viết từ 1963 ‟có phần huyền bí”.
2/11/1963, ngày thứ hai của cuộc đảo chánh, ngày phe đảo chánh giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và em ông, ông Ngô Đình Nhu. Khi đó bà Trần (Thị) Lệ Xuân, và cô Ngô Đình Lệ Thủy – vợ và con của ông Nhu – đang ở khách sạn Beverly Wilshire ở Los Angeles, California trong chuyến đi ‟giải độc dư luận các nước Âu Mỹ” từ đầu tháng 9(1).
Vào thời điểm đó, người viết chưa có một khái niệm rõ rệt về chính trường cũng như các nhân vật chính trị miền Nam Việt Nam dù có nghe nói đến họ. Trong số đó, bà Trần Lệ Xuân (từ đây sẽ là ‟bà Nhu”) là một nhân vật được đề cập đến khá nhiều, được nhiều người ưa, nhưng cũng lắm kẻ ghét – kể cả những người chưa khi nào tiếp xúc với bà.
Bà Nhu qua đời ngày 24 tháng Tư, 2011 tại Rome.
Hồi ký của bà Nhu
Vì nguồn và tài liệu cũng quan điểm của người trong cuộc vẫn là những phần tử quan trọng giúp cho người đời sau tìm hiểu lịch sử. Nhưng những ai muốn tìm hiểu quan điểm của những nhân vật chính trong lịch sử cận đại ở miền Nam Việt Nam, trong khoảng 1955–1963, đều gặp một trở ngại không nhỏ là không có hồi ký của những nhân vật chính trong cuộc: ba anh em Ngô-Đình (Tổng thống Diệm, ông Nhu và ông Cẩn đều đã bị giết chết); bà Nhu sống cuộc sống lưu vong ẩn dật từ 1963, trừ một cuộc phỏng vấn (52 phút) trong chương trình Vietnam: A Television History năm 1982;
Nếu có, ‟Hồi ký của bà Nhu”, sẽ là một tài liệu nói lên quan điểm của một nhận vật có ảnh hưởng không ít trong giai đoạn lịch sử đó.
Đã hơn một nửa thế kỷ trôi qua, những gì người viết biết về bà Nhu đều từ những bài viết, những bản tin, bài báo hình ảnh và video. Về những bài viết bằng tiếng Việt, có lẽ Trương Phú Thứ là tác giả duy nhất có tiếp xúc, gặp gỡ bà Nhu sau năm 1963. Phần còn lại, là những cuốn sách, bản tin, bài báo, phỏng vấn của báo giới và tác giả Mỹ.
Trong bài Chuyện trò với Bà Ngô Đình Nhu(2) viết sau lần gặp bà tại Pháp (2002), tác giả có đề cập đến ‟cuốn sách của bà” (Nhu) viết bằng tiếng Pháp, tự dịch sang tiếng Anh và tiếng Ý, và sẽ được phát hành – cả bản tiếng Việt (do người khác phụ trách dịch thuật) – cùng lúc tại nhiều nơi trên thế giới.
Đến 2007, tác giả Trương Phú Thứ viết rõ hơn trong bài ‟Đây là sự thật”(3):
‟Rất nhiều người mong đợi cuốn sách này. Sự thật là bà Nhu có viết một cuốn sách khá dầy. Bà viết bằng tiếng Pháp và tự dịch sang tiếng Anh và Ý. Một vị linh mục cao tuổi người Việt ở Paris được bà Nhu nhờ dịch sang tiếng Việt nhưng vị linh mục này đã qua đời khi vừa bắt tay vào công tác dịch thuật. Do vậy đến nay bản tiếng Việt vẫn chưa hoàn tất. Điều cần nói tới là cuốn sách mà nhiều người đang mong đợi không phải là một cuốn hồi ký.”
Tuy nhiên ở một bài viết khác, Có Hay Không ‟Hồi ký” Của Bà Ngô Đình Nhu?(4), năm 2011, ông Trương Phú Thứ khẳng định,
‟Bà Nhu có viết ‘hồi ký’ không? Câu trả lời chắc chắn và rõ ràng nhất là KHÔNG, hoàn toàn không có cái gọi là “hồi ký Bà Nhu” như nhiều lời đồn đại và cũng là trông chờ của nhiều người.”
Sau khi bà Nhu qua đời, ông Trương Phú Thứ, trong cuộc trao đổi với báo Người Việt(5) năm 2011, cho biết,
“Nếu bà còn sống, chúng tôi dự định sẽ xuất bản sách vào khoảng tháng 9, tháng 10 năm nay. Nhưng giờ bà đã mất, thời gian ra mắt quyển hồi ký có thể phải trễ hơn.”
Nhưng thay vì sẽ xuất bản bằng 4 thứ tiếng là Anh, Pháp, Ý và Việt, như đã nói trước đó, ông Trương Phú Thứ cho biết bản tiếng Việt do chính ông và ông Nguyễn Kim Quý chuyển dịch, và “Hồi ký của bà Nhu sắp tới sẽ chỉ xuất bản bằng tiếng Việt.”
Cho đến nay, đầu năm 2014, cuốn “Hồi ký của bà Nhu” bằng tiếng Việt vẫn chưa phát hành.
Tuy nhiên, vào đầu tháng 11, 2013, nhà xuất bản L’Harmattan đã công bố buổi ra mắt cuốn sách ‟Việt Nam Cộng Hòa và gia đình Ngô Đình viết theo Hồi ký di cảo của bà Ngô Đình Nhu” tổ chức vào lúc 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11, 2013 tại tại Giáo sứ Việt Nam (số 38 đường des épinettes, Quận 17, Paris). Cuốn sách viết bằng tiếng Pháp do hai con của bà Nhu, ông Ngô Đình Quỳnh và bà Ngô Đình Lệ Quyên (†2012), cùng Jacqueline Willemetz hiệu đính.(6)
Trong buổi ra mắt sách, trả lời phóng viên Tường An đài RFA, ông Ngô Đình Quỳnh nói,
‟Cuốn sách được xuất bản hôm nay có một phần hồi ức của Mẹ tôi được ghi chép từ năm 1963. Đồng thời chúng tôi có ý muốn soi sáng một phần của lịch sử hãy còn mù mờ. Một số sai lầm về hình ảnh hai anh em họ Ngô mà cả bên Tây Phương lẫn đảng Cộng sản Việt Nam đã lưu truyền. Từ quyển sách này chúng tôi muốn đem lại cái nhìn đúng đắn hơn, đồng thời có phần đóng góp của Mẹ tôi với nhãn quan có phần huyền bí của Bà. Thế thôi!”(7)
Như thế, đến nay, quan điểm của hậu duệ dòng họ Ngô-Đình đã được công bố qua cuốn sách nêu trên. Tuy nhiên, để biết bà Nhu nghĩ và viết những gì về chính trường Việt Nam thời Đệ nhất Cộng hòa, e rằng vẫn là điều không dễ tìm thấy trong cuốn La République du Viêt-Nam et les Ngô-Ðình suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu vì, theo ông Ngô Đình Quỳnh, phần hồi ức của bà Nhu viết từ 1963 ‟có phần huyền bí”.
Trong buổi ra mắt sách và tưởng niệm cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu ở Paris, người ta không thấy có mặt ông Ngô Đình Trác. Dường như ông Trác, từ lâu rồi, đã quyết định không tham gia vào các vấn đề và/hay với người có liên quan đến quá khứ của Việt Nam. Như thấy trên bìa cuốn La République du Viêt-Nam et les Ngô-Ðình Suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu chỉ có tên ông Quỳnh, bà Lệ Quyên và bà Willemetz, một người bạn của gia đình.
Chính trị tự nó đã không dễ hiểu vì những tròng tréo phức tạp nhưng vẫn có thể truy tìm và hiểu được. Hồi ức ‟có phần huyền bí” ắt không nằm trong khả năng đọc và hiểu của nhiều người. Và như thế, đa số người đọc La République du Viêt-Nam et les Ngô-Ðình suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô-Ðình Nhu, có lẽ chỉ có thể biết được quan điểm của ông Quỳnh và bà Lệ-Quyên về cha và bác của họ trong thời đệ nhất Cộng hòa.
1963
Trở về quá khứ; tháng 8, 1963 bà Nhu, một Phật tử trở thành Ki-tô hữu khi lập gia đình, viết cho tờ New York Times:
“I would clap hands at seeing another monk barbeque show, for one cannot be responsible for the madness of others.”(8)‟Tôi sẽ vỗ tay coi một màn nướng sư khác, vì không ai phải chịu trách nhiệm về sự điên rồ của những người khác.”
‟What have the Buddhist leaders done cooperatively? The only thing they have done… They have barbecued one of their monks whom they have intoxicated, whom they have abused the confidence. Even that barbecuing what done not with self–sufficient means because they used imported gasoline.”‟Giới lãnh đạo Phật giáo đã làm gì để hợp tác? Điều duy nhất họ đã làm… Họ đã nướng môt ông sư của họ, người mà họ đã đầu độc, người mà họ đã làm mất sự tự tin. Ngay đến cuộc nướng sư đó cũng không thực hiện với phương tiện tự túc vì họ đã sử dụng xăng dầu nhập cảng.”
Trong cuộc nói chuyện ngày 11/10/1963 tại Fordham University, một đại học tư với truyền thống Dòng Tên ở New York, bà Nhu cho biết không gì hữu hiệu hơn những ngôn từ nhạo báng bà đã dùng như ‟nướng sư”, ‟vỗ tay” để chận đứng những sự kích động phạm pháp [xúi người tự thiêu] và bà đã thành công trong trách nhiệm, cứu được mạng người bằng những lời nhạo báng đó.(9)
Ngày 1 tháng 11, khi cuộc đảo chánh đang diễn ra ở Sài Gòn, đoạn video của đài truyền hình ABC(10) ghi lại phần bà Nhu trả lời báo giới ở khách sạn Beverly Wilshire như sau:
‟You know… it is not the first time (laugh) it is not the first time. So I prefer to wait and see.”
‟You believe the events described are true?”
‟Oh, I believe that all the devils of the hell are against us. But I believe that we shall triump, we wil triumph finally.”
‟Will you seek political asylum in this country if the coup is successful?”
‟Never.”
‟Why?”
‟No, because I can not stay in the country of people who have stabbed me, my government in time of war.”
‟Madame Nhu do you have…”
Ms. Le Thuy spoke inaudibly, reporter was interrupted by Madame Nhu,
‟No, I do not think that it will succeed. You can be sure that I am sure that it will never succeed.”
‟You hear from my husband? I know, I know only that he expected this coup.”
‟OK, we will have to break it up now.”
– Các ông biết mà… đây không phải là lần đầu. Vì thế tôi sẽ đợi xem sao.
– Bà tin rằng vụ việc đang xảy ra là thật chứ?
– Ồ, tôi tin rằng tất cả đám quỷ sứ ở địa ngục chống lại chúng tôi; nhưng tôi tin rằng chúng tôi sẽ toàn thắng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng.
– Bà sẽ xin tị nạn chính trị tại đây không nếu cuộc đảo chánh thành công?
– Không bao giờ.
– Tại sao?
– Không là vì tôi không thể ở lại một đất nước đã đâm sau lưng tôi, và chính phủ của tôi. – Bà Nhu, bà có…
Lệ Thủy nói với bà Nhu (nghe không rõ) và bà ngắt lời ký giả,
– Không, tôi không tin là cuộc đảo chánh sẽ thành công. Các ông có thể chắc rằng tôi tin chắc là nó sẽ không thành công. Ông nghe tin của chồng tôi? Tôi biết, tôi chỉ biết rằng ông ấy chờ đợi cuộc đảo chánh này…
Ngày 3 tháng 11, 1963, cũng tại khách sạn Beverly Wilshire, bà Nhu họp báo và đọc một tuyên bố viết sẵn. Bà nói với báo chí rằng người Mỹ phải chịu trách nhiệm về cuộc đảo chính, ‟Những ai có Mỹ là đồng minh không cần có kẻ thù”; bà phủ nhận tin chồng bà và Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tự sát vì đó không phải là lựa chọn của Ki-tô hữu.(11)
Ngày 17/11/1963 bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy rời Los Angeles đi Rome để gặp lại Ngô Đình Trác, Ngô Đình Quỳnh, và Ngô Đình Lệ Quyên, bắt đầu cuộc sống lưu vong.(12)
Từ ngày đó đến khi qua đời bà Nhu chỉ hai lần lên tiếng với báo giới và công chúng Hoa Kỳ. Lần thứ nhất là cuộc phỏng vấn (52 phút) trong chương trình Vietnam: A Television History năm 1982.
Lần thứ hai, vào năm 1986 sau khi ông bà Trần Văn Chương bị con trai, Trần Văn Khiêm – em bà Nhu, giết chết ở ngoại ô Washington, D.C. Trong vụ giết người này, bà Nhu đồng ý với ông Khiêm, tin rằng có một thế lực (do con rể và bà [Ngô Đình] Lệ Chi Oggeri chủ mưu) muốn bịt miệng ông Khiêm. Bà Nhu tin rằng cha mẹ của bà chết vì cái chết tự nhiên, ‟Đây là chuyện gia đình” là tuyên bố sau cùng của bà Nhu với báo chí.(13)
Trong cuộc phỏng vấn(14) năm 1982 bà Nhu lập luận rằng chính quyền Diệm là chính phủ hợp pháp duy nhất ở Nam Việt Nam, do đó, Hoa Kỳ phải trả giá mà họ đã phản bội, đã ‟chặt đầu”, chính phủ Ngô Đình Diệm. Bà Nhu bàn về cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963 do cộng sản giật dây và kết quả của Hiệp định Paris. Bà nói về Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu cũng như hỗn danh ‟Dragon Lady” và vai trò của bà trong chính phủ Ngô Đình Diệm.
‟Vai trò của tôi, thật quá khó để xác định. Có thể nói, tôi như một con mèo con bị Chúa nắm cổ ném vào một đấu trường với những con sư tử; nhưng tôi tin rằng vì tôi đã được sinh ra dưới sao Sư tử [Leo, 22 tháng 8 –TGT], và tôi tin rằng tôi có thể sống chung với chúng….”
Về việc bà đã vui sướng khi các tu sĩ tự thiêu, bà Nhu nói,
‟Với những người điên vì sự vinh quang, vinh quang sai lạc, họ chấp nhận bị đánh thuốc mê và để bị đốt cháy đến chết vì những quyền mà chưa bao giờ bị bất cứ ai xâm phạm và [tôi] phải làm gì để ngăn chặn họ chấp nhận bị sát hại vì các cuộc biểu tình. Việc duy nhất tôi có thể làm lúc đó là nhạo báng họ… vì luôn luôn có những người điên vì sự vinh quang sai lạc… Tôi phải làm ngược lại.”
Về cái chết của Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu:
‟Tôi không muốn lên án ai cả… Trách nhiệm thuộc về chính phủ Kennedy… Cuộc ‟chặt đầu” Việt Nam không thể xảy ra nếu không có phép của Tổng thống [Mỹ]. Dường như, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Tổng thống Kennedy, nhưng thực tế – Tôi không biết. Sự thật – Tôi không biết. Tôi muốn biết.”
Cuối cùng, bà Nhu kể lại nỗ lực của ông Ngô Đình Nhu trong việc tiếp xúc với Bắc Việt,
‟Vì cộng sản không làm gì được; thay vì leo thang chiến tranh họ đã gởi người đến nói chuyện với chồng tôi; rồi họ lật lọng nói là chồng tôi đi nói chuyện với họ. Đó là nói láo. Không đúng chút nào. Họ là người đi bước đầu.”(14a)
Và sự kiêu ngạo của Hoa Kỳ trong việc can thiệp vào nội bộ Việt Nam đã đưa đến kết quả ngày 1/11/1963.
Trong khoảng từ 1963 đến nay cũng có nhiều bài và hai cuốn sách tiếng Việt viết về bà Nhu; một là cuốn tiểu thuyết ‟Đệ nhất phu nhân” của Hoàng Trọng Miên đăng báo (1965, 1988) dưới hình thức truyện dài; hai là Trần Lệ Xuân. Giấc mộng chính trường của Phan Thứ Lang, NXB Công An Nhân Dân (1998, 2005). Đến đây chấm dứt phần nói về hai cuốn sách tiếng Việt viết về bà Nhu.
Lời khen tiếng chê
Như đã biết, bà Nhu là một nhân vật gây nhiều tranh cãi, được nhiều người ưa, nhưng cũng lắm kẻ ghét – kể cả những người chưa khi nào tiếp xúc với bà. Sau đây là vài nhận định khen/chê.
‟According to the New York Times of August 22, she has taken the lead in legislating morality by outlawing adultery, polygamy and concubinage, but she has not been very kind to her own parents. According to the Times, she has described her mother as ‟a fanatic” and her father as a coward.”(15)
‟Theo tờ Nữu Ước Thời báo hôm 22 tháng Tám, bà Nhu đã mở đường làm luật về đạo đức, đặt ra ngoài vòng luật pháp việc ngoại tình, tục đa thê, nhưng bà ấy cũng không tử tế gì lắm đối với chính cha mẹ mình. Theo tờ Thời báo thì bà Nhu mô tả mẹ mình là ‟một kẻ cuồng tín” và gọi cha của bà là ‟một kẻ hèn nhát”.
[Linh mục John B. Sherrin, C.S.P., Christian Strong Woman? Catholic Northwest Progress, September 6, 1963, trang 4]
“That goddamn bitch. She’s responsible for the death of that kind man. You know, it’s so totally unnecessary to have that kind man die because that bitch stuck her nose in and boiled up the whole situation down there.”(15)
‟Con khốn chết tiệt đó. Nó phải chịu trách nhiệm cho cái chết của con người hiền lành đó. Anh biết đấy, hoàn toàn không cần thiết để người hiền lành đó phải chết vì cái con chết tiệt ấy lúc nào cũng dí mũi vào làm toàn bộ tình hình ở đó sôi bỏng.”
Sau cuộc đảo chánh khiến Tổng thống Diệm chết, Paul B. Fay Jr., bạn thân của John F. Kennedy thuật lại tâm trạng của TT Mỹ lúc đó. [Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200]
‟She was the beautiful but diabolic sex dictatress.” (Bà ấy đẹp tuyệt vời nhưng là người độc tài, đầy duc tính ma quỷ.)
David Halberstam.
‟The most dangerous enemy a man can have.” (Kẻ thù nguy hiểm nhất mà đàn ông có thể có.)
Malcolm Browne.
“Có thế nói là hơn bất cứ ai, bà Nhu phải góp phần chịu trách nhiệm to lớn về sự sụp đổ của Đệ Nhất Cộng Hòa, và thể chế ‘gia đình trị’ mà Hoa Kỳ với tư cách là một quốc gia dân chủ, luôn luôn tỏ ra chống đối.”
[Nguyễn Đình Tuyến, “Những Biến Cố Lớn Trong 30 Năm Chiến Tranh tại Việt Nam (1945–1975)”, Đại Học Đông Nam, Houston, 1995]
“Tuy tôi là bà con với bà, nhưng không bao giờ tôi nói ra, bà con với bà đối với tôi là một cái nhục…”
[Hanh H. Nguyen, Brushing the World Famous: The Story of my life, iUniverse, Inc. (2005)] Tác giả là cựu Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và Cố Vấn Kinh Tế Tài Chánh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm (Nguồn: Lê Xuân Nhuận, Ông bà Ngô Đình Nhu dưới mắt người đời)
‟Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu. Nhưng đã trót quý mến ai rồi thì khó mà nghĩ khác được… Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp… Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt cho. Nghe sao thì nói lại… Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế… Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được?”
[Nguyễn Văn Lục, Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu, DCVOnline, 11&12/10/2007]
‟Ấy ai như con chuồn chuồn, Khi vui thì đậu, khi buồn thì bay? Đẹp người mà nết lại hay. Nhìn ai, ta nhớ những ngày vàng son. Thương ai biển cạn, non mòn, Có về đâu nữa Sài Gòn ngàn năm!”
[Hoàng Hải Thủy, Có về đâu nữa Sài Gòn ngàn năm, Jan 15, 2009]
‟Bà là một phụ nữ khôn ngoan, một mẫu người tính tình cương trực, lịch lãm, dám nói dám làm, rất nhạy bén với thời cuộc… Tôi rất ngưỡng mộ bà Nhu dùng hai chữ “Nướng Sư” trong trường hợp Thượng Toạ Thích Quảng Đức… Bà Ngô Đình Nhu quả là một phụ nữ đoan trang, tiết hạnh, giàu cương nghị.”
[Nguyễn Kim Lộc, Bà Trần Lệ Xuân – Một thời sóng gió vẻ vang và nửa đời thầm lặng trong vinh diệu, viết sau khi bà Nhu qua đời]
Đi tìm bà Nhu
Đến 2005, một người Mỹ đã tìm gặp, phỏng vấn và chuyện trò với bà Nhu. Đây cũng là lần đầu tiên từ 1986 bà Nhu tiếp xúc với người phương Tây. Kết quả của là cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu của Monique Brinson Demery do nhà xuất bản PublicAffairs phát hành ngày 24 tháng 9, năm 2013.
Monique Brinson Demery, tác giả cuốn ‟Đi tìm bà Nhu”, đến Việt Nam lần đầu tiên trong chương trình du học của Hobart và William Smith College; bà cũng đã theo học tại chương trình Việt ngữ cao cấp mùa hè tại Hà Nội; năm 2003 bà tốt nghiệp Thạc sĩ Khoa Nghiên cứu Đông Á tại Havard University. Với mục đích tìm hiểu về một nhân vật mà các tài liệu nghiên cứu sử học hiện có về cuộc đảo chánh đã hoàn toàn bỏ quên, Demery đã quyết định đi tìm bà Nhu, người đã ảnh hưởng trực tiếp lịch sử Việt Nam ở một khúc rẽ ngoặt, dù bà đã không có liên lạc với thế giới bên ngoài từ gần hai mươi năm sau vụ án Trần Văn Khiêm ở Washington, D.C.
Bắt đầu là cuộc tìm kiếm bà Nhu tại Paris năm 2005 ở phố de Sufferen rồi kế đó là những cuộc trao đổi bằng điện thoại – gần như hầu hết do bà Nhu chủ động, và email. Suốt gần năm năm liên lạc, phỏng vấn, nghe chuyện của bà Nhu, tác giả Demery chưa một lần gặp mặt Đệ nhất phu nhân thời đệ nhất Cộng hòa dù đã có lần đã đưa cả con nhỏ sang Paris, vì bà Nhu không đến như đã hẹn.
Cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu khoảng 280 trang, gồm 16 Chương, với phần chú giải và mục lục. Bìa sách trình bày bằng hoa văn châu Á trên nền giấy như bị ố nước. Chủ đề là tấm ảnh bà Nhu trong chiếc áo dài cổ thuyền, bó sát người, tay áo 3/4 (trois–quarts), trên cổ là sợi dây chuyền thánh giá, tay cầm súng lục, nheo mắt trong thế ngắm bia. Đây là tấm ảnh bà Nhu chụp trong dịp thanh tra đoàn Thanh nữ Cộng hòa mà bà là thủ lãnh.
Với lối một viết đơn giản, thu hút, Demery đã, một mạch, dẫn người đọc đi tìm, gặp, biết bà Nhu từ những trang đầu lúc làm thám tử ở Paris đến những trang cuối của cuốn sách nói về một cuốn nhật ký – không phải là cuốn hồi ký mà bà Nhu đã gởi sau gần năm năm chờ đợi và vừa được nhà xuất bản L’Harmattan phát hành vào đầu tháng 11, 2013.
Mười sáu chương sách: 1. Paris, 2005, 2. Những nắm mồ bị bỏ quên, 3. Một gia đình quyền quý, 4. Chân dung một cô chiêu. 5. Cuộc gọi viễn liên, 6. Ôm con chạy loạn, 7. Ẩn dật ở cao nguyên, 8. Người đàn ông kỳ diệu của Việt Nam, 9. Đệ nhất phu nhân trong Dinh Độc Lập, 10. Những tấm da hổ, 11. Trai trẻ và Lão làng 12. Những nhà sư tự thiêu, 13. Quá đẹp để làm ngơ, 14. Cửa đóng, 15. Đảo chánh, và 16. Đời lưu vong.
Giữa cuốn sách là 11 tấm hình trắng đen in trên giấy trắng, dầy hơn những trang sách giấy vàng nhạt; bắt đầu là tấm ảnh cô Trần Lệ Xuân trong khăn áo ngày vu quy, khoảng 1943, sau cùng là tấm ảnh những thiếu niên Việt Nam chân đất, hay mang dép đang dẫm lên đầu đã gẫy của bức tượng bà Trưng ở Sài Gòn, năm 1963. Xen giữa là những tấm ảnh của những người trong gia đình và những hình ảnh bà nhu gặp báo giới và người Mỹ cũng như tấm hình ký giả Malcolm Browne ngồi trước ảnh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu.
Chương 1 nói về cuộc tìm kiếm bà Nhu ở Pháp và Chương 2, Demery thuật lại một bi kịch của gia đình bà Nhu: vụ ông Trần Văn Khiêm, sáu mươi tuổi, em bà, giết cha mẹ – ông cựu Đại sứ VNCH, Trần Văn Chương, 88 tuổi, và bà cựu Quan sát viên thường trực của VNCH tại Liên Hiệp Quốc, (Thân) Trần Thị Nam Trân, 76 tuổi – vào mùa hè năm 1986 tại Washington, D.C. Đây là lần cuối cùng bà Nhu lên tiếng với báo chí Mỹ. Chương 6, tác giả thuật lại những cuộc điện thoại viễn liên với bà Nhu.
Mười ba chương còn lại, tác giả thuật lại đời bà Nhu, một phần theo lời kể, bắt đầu với gốc gác gia đình, đời sống tiểu thư ở Hà Nội, cuộc sống khi mới lập gia đình trong thời loạn, đến khi trở thành một nhân vật chính trị nhiều ảnh hưởng, nhiều tranh cãi, trong suốt thời đệ nhất Cộng hòa; sau cùng là cuộc đảo chánh năm 1963 đưa bà Nhu vào đời sống lưu vong, ẩn dật.
Cuốn Finding the Dragon Lady: The Mystery of Vietnam’s Madame Nhu thành hình không chỉ đơn thuần dựa trên lời kể qua điện thoại hay email hoặc hồi ký của bà Nhu gởi; tác giả đã tham khảo và sử dụng rất nhiều thông tin rút ra từ báo chí, tài liệu của bộ Ngoại giao, CIA và các cơ quan khác thuộc chính phủ Mỹ, thư khố Mỹ, của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia của Pháp, từ các nhân chứng sống đã làm việc với dòng họ Ngô-Đình, cũng như các công trình nghiên cứu của các tác giả khác có từ thập niên 60 đến sách mới xuất bản năm 2013.
Sau gần hai năm liên lạc, và bao lời hứa hẹn về cuốn hồi ký vài trăm trang, bà Nhu đã viết từ 1963, Demery phải qua một thử thách khác trước khi thấy được một đoạn 83 từ, tóm lược cuốn hồi ký của bà Nhu. Để có được đoạn tóm lược cuốn hồi ký, tác giả Demery đã đi tìm và gởi cho bà Nhu tấm hình chụp phòng ngủ của Đệ nhất phu nhân trong Dinh Độc Lập chụp với vợ Phó Tổng thống Johnson và Jean Ann Smith em gái của Tổng thống Kennedy. Bà Nhu đặc biệt muốn có tấm ảnh đó vì những tấm da hổ dưới sàn trong phòng là một phần hình ảnh của ông Ngô Đình Nhu, một người săn bắn giỏi, để lại.
Nếu tác giả Finding the Dragon Lady phải đợi gần hai năm, thì người đọc cũng chỉ biết đoạn tóm lược cuốn hồi ký của bà Nhu sau khi đọc hết 11 chương sách. Có lẽ không khác với Demery, độc giả của Demery cũng chưng hửng vì đoạn tóm lược cuốn hồi ký gồm những cụm từ như ‟Hội Thánh phải được bảo vệ”, ‟Việt Nam bị đóng đinh như đấng Ki-tô của các quốc gia”, ‟bí ẩn của Fatima”, và ‟Sự khải huyền”. Dường như đó không phải là tóm lược hồi ký của một nhân vật chính trị một thời đầy quyền lực.
Khi Demery hỏi cuốn hồi ký đời bà đâu thì được bà Nhu trả lời, ‟Sắp có. Tôi chỉ muốn biết rằng tôi có thể tin vào cô.” Đó là kết quả của một quan hệ gần hai năm.
‟Viên sỏi trắng”
Mãi đến mùa hè năm 2010, sau gần năm năm liên lạc, hy vọng và chờ đợi, tác giả Demery nhận được hai tập hồi ký của bà Nhu qua email.
Lại một lần nữa, Demery bối rối. Tựa tập hồi ký của bà Nhu là ‟Viên sỏi trắng” (Le Caillou Blanc). Nếu dựa vào từ nguyên học tiếng Pháp, có lẽ bà Nhu cho rằng cuốn hồi ký là ghi lại những ngày tháng, những sự kiện, những tư duy trong sáng, hạnh phúc, may mắn. Một nghĩa khác của ‟viên sỏi trắng” là người vô tội, đã được minh oan, trắng án như phán quyết của phiên tòa thời cổ đại khi đưa cho phạm nhân một viên sỏi trắng.
Nhưng nếu dựa vào đoạn tóm lược hồi ký dẫn trên, người đọc có lẽ sẽ hiểu chính xác hơn ‟Viên sỏi trắng” của bà Nhu theo nghĩa của Khải huyền 2.17(16)
‟Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh: Kẻ nào thắng, ta sẽ ban cho ma-na đang giấu kín; và ta sẽ cho nó hòn sỏi trắng, trên đó có viết một tên mới, ngoài kẻ nhận lấy không ai biết đến.”
Đó là viên sỏi trắng trên có khắc tên mới của người được Giê-su ban cho, như giấy phép đi nhận di sản của họ ở thiên đường.
Cùng 16 chương sách, tác giả có 182 chú thích (trang 231–244); hai chương không có chú giải là Chương 1. Paris, 2005, và Chương 5. Cuộc gọi viễn liên. Trong 182 chú giải đó Demery có 10 chú thích cho biết 10 đoạn trong sách lấy từ cuốn ‟Le Caillou Blanc”; Chương 3. Một gia đình quyền quý [5], Chương 7. Tản cư về núi [2], Chương 8. Người đàn ông kỳ diệu của Việt Nam [2], và Chương 12. Những nhà sư tự thiêu [1]
Đọc vài trăm trang hồi ký với những tiểu tựa in đậm, trong ngoặc, liên hệ đến thánh kinh Demery cho rằng bà Nhu đã viết lại đời mình như một bản liệt kê vĩ đại, theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, đây là một bản liệt kê viết bằng mật mã.
Với đa số, có lẽ đây là một trở ngại rất lớn để hiểu câu chuyện đời của bà Nhu vì giải mã những suy nghĩ về tâm linh, triết lý, thánh linh huyền bí không phải là một khả năng phổ quát của người đọc sách.
Sàng lọc ‟Viên sỏi trắng” để viết được 10 đoạn trong Finding the Dragon Lady đã có thể xem là một kỳ tích rồi.
Cuốn Finding the Dragon Lady có nhiều thông tin, một số có thể xem như thuộc về lịch sử, một số khác chỉ liên hệ đến đời thường.
Chương 2 và Chương 3 – Về thời thơ ấu của bà Nhu cho người đọc biết bà Nam Trân sinh con gái đầu lòng, Lệ Chi, khi 12 tuổi, 10 năm sau ngày cưới; bà Nhu sinh sau bà Trần Lệ Chi gần hai năm, và hai năm sau ông Trần Văn Khiêm chào đời. Như thế, trên mặt giấy tờ, bà Thân Thị Nam Trân lấy chồng năm 2 tuổi, và lúc ấy ông Trần Văn Chương 14 tuổi.
Chương 4 – Thời thiếu nữ của bà Nhu. Về mặt học vấn, chị em bà Lệ Xuân đã được dạy ở nhà khi nhỏ; khi 5 tuổi Lệ Xuân và Lệ Chi, được gởi vào Saigon học nội trú. Về lại Hà Nội, cô Lệ Xuân học nói, viết và suy nghĩ ở trường trung học Albert Sarraut, thấm nhuần văn hóa như một thiếu nữ Pháp da vàng. Không như nhiều tác giả Việt Nam đã cho cô Lệ Xuân đỗ Tú tài II chương trình Pháp, Demery không đề cập đến học trình của bà Nhu ở Lyceé Albert Sarraut như Karnow, ‟Lệ Xuân đã bỏ học trường Albert Sarraut, trường trung học Pháp danh giá ở Hà Nội, ở đấy Lệ Xuân chỉ là một học sinh loại xoàng…” thông thạo tiếng Pháp nhưng không biết viết tiếng Việt.(17)
Cũng ở Chương 4, tác giả cũng nhắc lại những tình tiết ly kỳ trong cuộc sống lứa đôi của ông bà luật sư Trần Văn Chương qua tài liệu của sở mật thám Pháp. Những chi tiết đó rất không thuận với ‟thanh danh” trên bản cáo phó của cựu Đại sứ Trần Văn Chương mấy chục năm về sau. Về bà Nam Trân, theo tài liệu của Pháp, mật thám ghi sổ số tình nhân của bà mệnh phụ; người tình nổi tiếng nhất là một viên chức ngoại giao Nhật tên Yokoyama Masayuki, ngoài ra, theo lời đồn, còn phải kể đến một thanh niên trẻ tên Ngô Đình Nhu.
Quan hệ giữa gia đình luật sư Trần Văn Chương, hay đúng hơn là giữa bà Nam Trân với Yokoyama Masayuki được cho là lý do khiến Trần Văn Chương có tên trong danh sách 11 thành viên được đề cử vào nội các do Trần Trọng Kim trình lên Bảo Đại (17 tháng 4, 1945) và được Yokoyama cùng có mặt khen ngợi.(18)
Tháng Năm, 1943, lấy ông Nhu, lớn hơn mình 14 tuổi, làm chồng là một cuộc hôn nhân thực dụng chứ không phải là kết quả của một mối tình lãng mạn, bà Nhu cho ký giả Charles Mohr của Tạp chí Time biết. Tình yêu lãng mạn chỉ có ở trong sách chứ không có thật, bà Nhu tin như vậy. Khi lập gia đình bà Nhu được làm lễ rửa tội ở Nhà Thờ Lớn tại Hà Nội và có tên thánh là Lucy theo Saint Lucia, vị thánh của người khiếm thị. Nhiều tác giả Việt Nam thường ghi tên thánh của bà Nhu là ‟Maria”.
Chương 6 – Sau hôn lễ năm 1943 ở Hà Nội bà Nhu theo chồng về Huế ở trong căn nhà thuê lại của em gái ông Nhu, bà Cả Lễ (Ngô Đình Thị Hoàng). Cuối năm 1946, bà Nhu đã trở thành một bà mẹ trẻ ở tuổi 22 dù chồng bà thường xuyên không có mặt ở nhà. Với con nhỏ, mẹ chồng, em chồng và một cô cháu gái, cô con dâu mới phải ngậm miệng trước sự xắp xếp cuộc sống mới ở Huế như thế; hơn 60 năm sau, kể chuyện dĩ vãng, bà Nhu cho mình đã quá ngờ nghệch gần như ngu ngốc khi chấp nhận ở lại giữ căn nhà của bà Cả Lễ thay vì theo linh mục dòng Tên cuối phố đi tìm chỗ trốn Việt Minh những người vào tháng 8, 1945 đã bắt giam cha con người anh cả của chồng bà, Ngô Đình Khôi, và sau đó xử bắn vì là thành phần tư sản phản động.
Sự mô tả những bộ đội Việt Minh dân miền Trung năm 1946 phản ảnh rõ rệt thái độ của một người trưởng giả miền Bắc; với bà Nhu những bộ đội đó không khác người ở lỗ, hôi hám, giọng nói như tiếng gầm gừ của loài man rợ. Quito, con béc-giê đã một lần cứu chủ khỏi tay quân Tưởng Giới Thạch năm trước bị nhốt ở một phòng khác không làm gì được khi Việt Minh vào nhà bà Nhu phá vỡ cái đại dương cầm trước khi bắt cả nhà phải theo họ rời thành phố.
Đoàn người gồng gánh đi qua những con đường bùn đất lầy lội, đến cuối cánh đồng, cách một đoạn đường, trước mặt là một cái cầu, bỗng đâu một tiếng nổ xé trời cùng tiếng hô ‟nằm xuống”. Lính cũng như dân đều bò xuống ven đường tránh sỏi đá bay mù. Lần đầu tiên đối diện với chiến tranh, cuộc chiến đã kéo dài vài năm từ ngày bà là cô dâu đến khi làm người mẹ trẻ; trong thực tế chiến tranh đó bà Nhu nuối tiếc đời sống xa hoa ở Huế.
Người mẹ trẻ đứng giữa đường, dưới cơn mưa, hất vạt áo che con, quyết định bước đi giữa lòng trận mạc, qua cầu.
Kể lại câu chuyện ôm con đi qua cầu giữa lòng trận mạc, có lẽ, bà Nhu đã gây ấn tượng sâu sắc với nhiều người không phải sống tranh chiến tranh chứ không riêng gì với tác giả cuốn Finding the Dragon Lady.
Kể lại lúc bị Việt Minh bắt giữ cũng là lúc bà Nhu hé lộ cho người đọc biết tình cảm của gia đình chồng đối với mình khi thấy thái độ và ứng xử của anh Bảy Việt Minh và bà qua việc nhắc lại lời bà Khả dạy ông Nhu, ‟Lấy vợ phải coi gia thế cũng như mua heo phải biết nái xề” và nhận xét của ông Cẩn, ‟Mẹ nào con nấy; chị ấy sẽ chẳng khác gì mẹ chị ấy đâu.”
Bà Nhu gián tiếp xác định báo cáo của mật thám Pháp và nhận định của tướng Georges Aymé?
Chương 7 – Gia đình bà Nhu đoàn tụ ở Đà Lạt từ 1947-1954. Bảy năm ở Đà Lạt, tạm trú ở một villa nhỏ mượn của một bác sĩ, bạn ông Trần Văn Chương, số 10 đường Roses/Hoa Hồng/Ngô Đình Khôi nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, là ‟thời gian hạnh phúc nhất” của bà Nhu dù chồng bà vẫn thường không có mặt ở nhà. Thời gian này Ngô Đình Trác (1949) và Ngô Đình Quỳnh (1952) ra đời trong lúc ông Nhu đang gây mầm xây dựng đảng Cần Lao-Nhân Vị, cơ sở chính trị hậu thuẫn cho chính quyền Ngô Đình Diệm về sau. Bà Nhu cảm thấy hạnh phúc nhất vì sinh được hai con trai hay vì những cuộc vui đêm, những cuộc đi câu, picnic, ngoạn cảnh với người bà con có tiếng, cựu hoàng Bảo Đại.
Một đoạn ở chương 7 mô tả một ‟biệt thự nhỏ” của bà Nhu, ở số 2 đường Yết Kiêu nhìn xuống một thung lũng tuyệt vời của Đà Lạt. Ngôi ‟biệt thự nhỏ” gồm 3 căn nhà, một cho gia đình bà Nhu, một dự định dành cho ông bà Trần Văn Chương, và một dành cho khách, xoay quanh sân ở giữa, có hồ bơi nước nóng, có vườn hoa Nhật Bản, với hồ sen. Lâm Ngọc, ngôi nhà riêng của gia đình bà Nhu có tháp canh ngay lối vào, với năm lò sưởi, sẽ trang trí bàng da và đầu thú, thành tích săn bắn của ông Nhu. Nhà bếp với trang bị bằng thép không rỉ và dự định có cả lò hồng ngoại. Bà Nhu không nghĩ rằng nôi ‟biệt thự nhỏ” bà đang xây là hoang phí trong khi nhà của dân quê thời đó vẫn còn chuồng xí ngoài trời trên ao cá tra. Theo lời một trong 50 người làm vườn, ông Phạm Văn Mỹ, thì bà Nhu là một ‟mệnh phụ khó tánh” thích của đắt tiền, hay thay đổi, hò hét với gia nhân nhưng lại sợ sâu bọ. Xây dựng ngôi biệt thự đó mất năm năm trời – sửa cửa chính 8 lần với 10 lần thay sổ góc mới hài lòng – nhưng bà Nhu chưa một ngày ở đó vì khi ngôi biệt thự hoàn tất thì quyền lực của bà cũng tiêu tan.
Chương 8 – Theo lời chồng, bà Nhu đưa các con về sống ở Sài Gòn để thuận tiện giúp Thủ tướng Diệm củng cố quyền lực. Gia đình bà Nhu tạm trú trong năm căn phòng thuê, trong đó hai phòng dùng làm nơi in báo Xã hội của ông Nhu. Những năm tháng đầu sống vô vị ở Sài Gòn có lẽ là khoảng thời gian bà Nhu cảm thấy chán chường nhất. Vẫn không thay đổi, bà Nhu không biết hành tung của chồng mình.
1954-55 là thời gian bà Nhu bắt đầu có bạn thân người Mỹ. Họ đều là nhân viên CIA. Sau khi dẹp tan Bình Xuyên (tháng 4 đến tháng 9/1955) và truất phế Bảo Đại (23/10/1955), ông Diệm trở thành quốc trưởng, Tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa.
Về Thủ tướng Ngô Đình Diệm, trong ‟Le Caillou Blanc”, bà Nhu cũng viết lại câu chuyện ông Diệm bị cộng sản bắt năm 1946 và Hồ Chí Minh, sau khi không thuyết phục được, đã để ông tự do ra đi. Đây là giai thoại đã được nhắc lại nhiều lần nhưng tài liệu có thể dùng để xác định sự thật lịch sử có lẽ vẫn còn nằm trong văn khố kín của đảng Cộng sản Việt Nam vì những chứng nhân của sự kiện ấy như Lê Giản, Vũ Đình Huỳnh đã ra người thiên cổ.(17a) Cũng ở chương này, trích đoạn từ ‟Viên sỏi trắng”, bà Nhu nhắc lại công trạng của mình trong việc tổ chức cho dân di cư biểu tình ngày 21 tháng 9, 1954 ủng hộ Thủ tướng Diệm, hất cẳng tướng Nguyễn Văn Hinh, con của cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm (6/1952 – 12/1953), ra khỏi Sài Gòn. Đây là bước đầu của bà Nhu vào chính trường miền Nam, đóng vai một chính khách tinh tế, và không biết sợ; Diễn tuồng, tinh tế và không biết sợ không phải là sở trường của hai anh em ông Diệm và Nhu. Sau chiến công tháng 9, 1954, Pháp than phiền với Mỹ, Mỹ nói lại với Thủ tướng Diệm và bỗng dưng bà Nhu được gởi đi Hồng Kông ‟an trí” sáu tháng, để ông Nhu ổn định tình hình. Với bà Nhu, đây lại là dấu hiệu cho thấy tiềm năng và ảnh hưởng chính trị của mình.
(Còn tiếp phần II)
© 2014 DCVOnline
(1) Nhân tham dự phiên họp Liên minh Liên Nghị viện tại Belgrade vào trung tuần tháng 9, 1963
(2) Trương Phú Thứ, Chuyện trò với Bà Ngô Đình Nhu, đăng ở Văn Nghệ Tiền Phong; đăng lại trên Nguyệt San Dân Chúa, Số 332, tháng 10, 2004
(3) Trương Phú Thứ, Đây là sự thật, vantuyen.net, 2007/12/23
(4) Trương Phú Thứ, Có Hay Không ‟Hồi ký” Của Bà Ngô Đình Nhu? dankeu.com, 2011/01/24
(5) Ngọc Lan, Nói chuyện với ông Trương Phú Thứ, người sẽ xuất bản hồi ký của bà Ngô Ðình Nhu. Người Việt, Monday, April 25, 2011.
(6) Ngô–Ðình Quỳnh, Ngô–Ðình Lệ Quyên ( 2012), Jacqueline Willemetz, (Ed.), La République du Viêt–Nam et les Ngô–Ðình Suivi des mémoires posthumes de Madame Ngô–Ðình Nhu. L’Harmattan, 2013, Mémoires, Récit Historique Asie Vietnam
(7) Tường An, Paris tưởng niệm 50 năm cố Tổng thống Ngô Đình Diệm qua đời, RFA, 3/11/2013.
(8) ‟Letters to the Times: Mrs. Nhu Defends Stand”, The New York Times, 14 August 1963
(9) Madame Nhu at Fordham University: Bonze, Fordham/Student Comments re: Madame Nhu [Part 1 of 2], A Television History, ABCNews, 11/10/1963, Fordham University, New York, NY. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–1–of–2–madame–nhu–at–fordham–university–bonze–fordham–student–comments–re–madame–nhu–part–1–of–2
(10) Madame Nhu, LA During Coup, Vietnam: A Television History, ABC News Video Source. http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–abc–9465–madame–nhu–la–during–coup
(11) Madame Nhu Press Conference, Vietnam: A Television History, CBS News, http://openvault.wgbh.org/catalog/vietnam–78–106–madame–nhu–press–conference
(12) Mme. Nhu Leaves The US, But May Be Back, British Pathé, 17/11/1963 http://www.britishpathe.com/video/madame–nhu–leaves–us–and–saigon–settles–down/query/pagodas
(13) Saundra Saperstein and Elsa Walsh, A Journey From Glory to the Grave: Prominent Vietnamese Family’s Saga Began in Palace, May End in Court in the Wake of a Double Death, The Washington Post|November 05, 1987|http://articles.latimes.com/1987–11–05/news/vw–18789_1_vietnamese–family
(14) Open Vault, Interview with Madame Ngo Dinh Nhu, 1982, Vietnam: A Television History, 02/11/1982, WGBH Media Library and Archive. (14a) Thực ra tin ông Nhu thương lượng với cộng sản Bắc Việt do chính ông Nhu rò rỉ.
(15) Paul B. Fay, Jr., Oral History Interview – JFK #3, 11/11/1970, trang 199–200
(16) ‟Ce celui qui a des oreilles entende ce que l’Esprit dit aux Églises: A celui qui vaincra je donnerai de la manne cachée, et je lui donnerai un caillou blanc; et sur ce caillou est écrit un nom nouveau, que personne ne connaît, si ce n’est celui qui le reçoit.” – Apocalypse 2.17 (version Annotée Neuchâtel). ‟He that hath an ear, let him hear what the Spirit saith unto the churches; To him that overcometh will I give to eat of the hidden manna, and will give him a white stone, and in the stone a new name written, which no man knoweth saving he that receiveth it.” Apocalypse 2.17 (King James Version)
(17) ‟Le Xuan had dropped out of the Lyceé Albert Sarraut, the pretigious French high school in Hanoi, where she had been a mediocre.” Stanley Karnow, Vietnam: A History, Revised and Updated Ed., Penguin Book USA Inc., 1991, p.283.
(17a) Vũ Thư Hiên, Chuyện kể dưới hầm, Montréal, 2006
_______________________
Nguồn :
http://dcvonline.net/2014/02/21/di-tim-ba-nhu-gap-ong-dai-uy/?utm_source=rss&utm_medium=rss&utm_campaign=di-tim-ba-nhu-gap-ong-dai-uy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Hình ảnh xưa gom về từ mọi nơi trên mạng Net ,không phải của Ròm ,không thuộc về Ròm .Các bạn cứ tự nhiên lấy về để xem ,để cho bạn của các bạn xem hay làm tư liệu ..... sao cũng được hihi .Phần nhiều hình xưa từ trước 1975 và một ít hình xưa thuộc về cận sau 75 . Về nguồn hình đem về thì có cái có có cái không đó là do khi có khi không và "quên" cái việc "Nguồn Hình" hehehe Thông cảm nha .
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm