Nguồn Gốc và Ý Nghĩa của tên SÀIGÒN |
Vietsciences-Nguyễn Ngọc Huy 22/09/2005 |
I/ Nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn
Trong "Ðại Nam Quốc Âm
Tự Vị" của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi thổi, Gòn: tên loại cây
cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn
nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất
Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.
Ðịnh nghĩa Sàigòn của
quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sàigòn trước đây dùng
để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sàigòn hiện nay thì
trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người Anh
là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những
người này thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết
là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ
1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, còn
Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và
các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes
Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2).
Vậy, Sàigòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên
khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía
đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ
dùng làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người
ngoại quốc phát âm hơn Sàigòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà
gọi Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sàigòn thì được gọi là
Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng
Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long.
Cũng theo quyển Ðại Nam
Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sàigòn có nghĩa là củi gòn.
Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào
bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập Souvenirs
historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng
cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này
tại vùng ấy năm 1885.
Sau ông Trương Vĩnh Ký,
còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo
ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sàigòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao
phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn
(Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một
địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác,
ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn
ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng
có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers).
Thuyết về nguồn gốc tên
Sàigòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này đã bị một số học giả
khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng
theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con
bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn.
Mặt khác, các nhà học
giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay
của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623,
một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt
một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy
có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông
đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn.
Theo ông Etienne
Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf
royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam
phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở
giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là
thành phố.
Nhà học giả Pháp Louis
Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng
Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt
Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của
một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ
phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut
de l'ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc
theo V.N là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo
giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào
một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu Chia
bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa
Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong
khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).
Một tác giả khác, ông
Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều
đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù
Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán
từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền
Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh
Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ
đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn
nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng
Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho
rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra.
Về đất Bến Nghé thì
người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc
trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ
mà ta đọc là Tây Cống.
Vậy, có ba thuyết về
nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sàigòn:
1. Thuyết của các ông
Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và
có nghĩa là củi gòn.
2. Thuyết của ông Louis
Malleret: Sàigòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng
Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.
3. Thuyết của ông Vương
Hồng Sển: Sàigòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề Ngạn phát âm theo giọng
Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Còn về
tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung
Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi tên này được dùng đẻ
chỉ đất Bến Nghé cũ.
Ba thuyết trên đây cái
nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự, không cái nào có thể làm
cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những người nêu ra các
thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam
Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh
này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:
- Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.
- Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
- Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v... Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.
Nếu lấy các qui tắc đặt
địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận thì ta thấy ngay
các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn.
- Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn
- Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.
Vậy, các thuyết kể trên
đây đều không vững cả.
Cuối cùng, chỉ còn một
dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có
thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng
người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo
tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào
hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo
tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sàigòn do
ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam
như thông lệ.
Xét về mặt nguyên tắc
đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là
tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay
tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp
chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt
Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau
đây để suy luận:
1. Vào đầu thế kỷ 17,
nước Cam Bu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề,
và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey
Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại đẻ cho chúa
Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ Lớn ngày nay.
2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở
thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa
Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa
Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán
gì nhiều.
3. Người Việt Nam chỉ
vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng
thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở
thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người
Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
4. Như thế, cơ sở thuế
của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan
trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu
lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ
lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa
Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn.
Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong những món hàng
được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không
nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là
rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem về nước dồn
gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước
khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây
gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức
Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất
này là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương
này.
5. Về cái tên Khmer này,
các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người thì nói là Prei Kor,
người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó
là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố
của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không
thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.
-
Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì.
-
Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.
Do các nghi vấn trên
đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta
có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa
Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi
mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô
tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay
thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép
lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên
Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả
thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được:
đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây
Gòn, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương
tự.
Vì không biết ngôn ngữ
và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn
đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước
rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề
này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn yêu dấu của chúng
ta.
(Viết vào thập niên 80).
Hình ảnh
Sài Gòn xưa
Trích từ trang Việt Nam Quê Hương
Tôi cùa Nguyễn Tấn Lộc :
Phù! Đọc mệt quá. Cám ơn chú vì bài đọc bổ ích.
Trả lờiXóa