Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hàng chục vạn người, đa số là người Công giáo, rời khỏi miền Bắc VN năm 1954 theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do)
Di cư năm 1954 là sự kiện xảy ra sau Hiệp định Genève tại Việt Nam, bao gồm dòng người từ miền Nam "tập kết ra Bắc" và một dòng người lớn hơn với gần một triệu người "di cư vào Nam".
Bài chi tiết: Hiệp định Genève, 1954
Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vàPháp, tạm thời chia đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự tại vĩ tuyến 17. Hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tập trung ở miền Bắc và hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Liên hiệp Pháp được tập trung ở miền Nam, chờ ngày tổng tuyển cử tự do dự kiến sẽ xảy ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1956. Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5, 1955. Dân Hà Nội có 80 ngày, Hải Dương có 100 ngày,[1] còn Hải Phòng, điểm cuối cùng tập trung để di cư có 300 ngày.[2]
Để giám sát thực thi hiệp định, Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến được thành lập theo điều 34 của hiệp định với đại diện của ba nướcẤn Độ, Ba Lan, và Canada.
Di cư vào Nam
Nguyên nhân
Một người Thiên Chúa giáo di cư từ miền Bắc đang được cứu trợ
Theo tuần báo Time, những người di cư vào miền Nam, đặc biệt những người Công giáo Việt Nam, cho rằng họ đã bị đàn áp tôn giáo dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[3][4][5]. Nhiều người thật sự ra đi vì lý do kinh tế và chính trị: họ là những người làm việc cho Pháp, hay giới tư sản không có cảm tình với chính phủ Cộng sản. Một số người là nạn nhân của cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, bị lấy mất tài sản nên phải bỏ ra đi.
Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì cho rằng những người Công giáo Việt Nam đã bị chính quyền Pháp, Mỹ và thân Mỹ cưỡng bức hay "dụ dỗ di cư"[6]. Khẳng định này không mâu thuẫn với các tài liệu của Mỹ[7] về hoạt động của Edward Lansdale, chuyên gia tình báo Mỹ hoạt động tại miền Bắc Việt Nam trong thời gian này, với nhiệm vụ làm suy yếu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bằng mọi cách có thể[8]. Theo đó, các linh mục miền Bắc giục giã giáo dân vào Nam với lời giảng rằng Đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam nên họ phải đi theo[9]. Lansdale và nhóm của ông đã thực hiện một chiến dịch tuyên truyền miêu tả rằng các điều kiện sắp tới dưới chính quyền Việt Minh sẽ ác nghiệt hết mức có thể. Nhóm này phân tán các tờ truyền đơn được giả mạo là của chính phủ Việt Minh, tạo các tin đồn, thuê các thầy bói tiên đoán về các tai họa sắp tới. Bản tường trình mật của Lansdale về nhiệm vụ của ông đã ghi nhận số người đăng ký di cư vào Nam tăng lên gấp 3 lần sau khi một tờ truyền đơn giả mạo được phát tán[7].
Ngược lại, những tờ bích chương và tờ bướm do Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phân phát[10]. Hơn nữa chính Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về hành động cưỡng bách di cư. Trong số 25.000 người Uỷ hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả[11].
Ngoài những người di cư vào Nam vì lý do tôn giáo (chiếm 2/3 tổng số), số còn lại là những người thuộc khuynh hướng chính trị chống cộng sản, những người có liên hệ với chính quyền Pháp hay chính phủ quốc gia, thành phần tư sản thành thị và những gia đình nông thôn lo ngại vì chính sách cải cách ruộng đất và đấu tố[12]. Thêm vào đó là những người thuộc dân tộc thiểu số đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên[13][7].
Tiến trình
Tàu há mồm LST đón người di cư rời miền Bắc.
Ngày 9 tháng 8 năm 1954, chính phủ Quốc gia Việt Nam của tân Thủ tướng Ngô Đình Diệmlập Phủ Tổng ủy Di cư Tỵ nạn ở cấp một bộ trong nội các với ba nha đại diện, một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư. Thêm vào đó là Uỷ ban Hỗ trợ Định cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức.
Đối với sinh viên đại học, Bộ Tư lệnh Pháp dành 12 chuyến bay trong hai ngày 12 và 13 Tháng Tám đưa khoảng 1200 sinh viên miền Bắc vào Nam.[14] Ước tính chỉ khoảng 1/3 ở lại còn 2/3 chọn di cư.[15]
Vì không có đủ phương tiện cho những người di cư vào Nam nên chính quyền Pháp và Bảo Đại phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư. Các chính phủ Anh, Ba Lan,Tây Đức, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Nhật, Philippines, New Zealand, Trung Hoa Dân quốc, Úc và Ýhưởng ứng cùng các tổ chức UNICEF, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), CARE và Thanh thương Hội Quốc tế.
Ngày 4 tháng 8 năm 1954 cầu hàng không nối phi trường Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập. Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1.200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.
Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" (tiếng Anh: landing ship, tank viết tắt là LST) đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 555.037 người "vô Nam". "Nam" được hiểu là cả dải duyên hải miền Nam Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Vũng Tàu. Vì số người di cư quá đông Cao uỷ Pháp đã xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đã thoả thuận nên ngày cuối cùng thay vì là ngày 19 tháng 5 được đổi thành ngày 19 tháng 8. Trong thời gian gia hạn thêm 3.945 người đã vượt tuyến vào Nam. Chuyến tàu thuỷ cuối cùng của cuộc di cư cập bến Sài Gòn vào ngày 16 tháng 8.
Thêm vào đó, còn tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng.
Tính đến giữa năm 1954 và 1956, trên 1 triệu người đã di cư từ Bắc vào Nam, trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, tức khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc đã bỏ vào Nam[16].
Trong văn học và âm nhạc
Bài thơ Nhất định thắng (năm 1955) của nhà thơ Trần Dần[17] có viết về cuộc di cư này cùng với sự đau thương chia cắt Bắc Nam và lời kêu gọi đứng lên đòi hòa bình và thống nhất.
Năm 1955, nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài thơ Thuyền viễn xứ của Huyền Chi và sau này là bài 1954 - 1975 nói lên tâm trạng của những người di tản.
Trong miền Nam, những bản nhạc Chuyến đò vĩ tuyến, Nắng đẹp Miền Nam, Nhạc rừng khuya và Đoàn người lữ thứ của nhạc sĩ Lam Phương,[18] Ghé bến Sài Gòn của Văn Phụng, Hình ảnh quê xưa của Hoàng Trọng cũng nói về cuộc di cư này.
Tập kết ra Bắc
Sử liệu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận có 140.000 người di cư ra Bắc bằng phương tiện riêng, băng rừng Trường Sơn, hoặc đi trên các tàu của Ba Lan, Pháp và Liên Xô[16]. Đa số đây là những người theo Việt Minh và gia đình của họ tập kết ra Bắc.
Phủ Tổng uỷ Di cư Tỵ nạn của Quốc gia Việt Nam thì ghi con số 4.358 người đi qua ngả chính phủ.[cần dẫn nguồn] Họ là những người vì vội vã đã bỏ vào Nam nay đổi ý muốn trở lại ra Bắc hay những người tin theo vận động của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tìm đường ra Bắc. Số người này được vận chuyển bằng đường thuỷ và hàng không của Pháp.
Tài liệu tham khảo
6. ^ Đảng Cộng sản Việt Nam, Chỉ thị của Ban Bí thư số 16-CT/TW, ngày 21 tháng 4 năm 1955, tăng cường chỉ đạo, tích cực đấu tranh phá âm mưu địch cưỡng ép và dụ dỗ giáo dân di cư
8. ^ Nguyên văn: "...his task was to weaken Ho Chi Minh's Democratic Republic of Viet Nam through any means available..."; Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, ABC-CLIO, 1998, tr. 220.
10. ^ O 'Connor, Patrick. "Violations of Article 14 of the Geneva Agreement" trong cuốn Terror in Vietnam: A Record of Another Broken Pledge. Washington, DC: National Catholic Welfare Conference, 1955.
12. ^ Freeman, James M. Hearts of Sorrow, Vietnamese-American Lives. Stanford, CA: Stanford University Press, 1989. Trang 142-5.
16. ^ a b Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, Flight from Indochina[1], tr. 80-81
Trích đoạn từ : http://www.vietlist.us/SUB_VietHistory/VNHistory_12.shtml
Ce sont des photos d'un journaliste soviétique: Sur la première photo, sont accrochés en hauteur les portraits des dirigeants communistes. En dessous se tiennent des fonctionnaires communistes. Devant des paysans pauvres, l’un après l’autre, réprimandent un bourgeois encourageant la population spectatrice à approuver et à le passer à tabac.
113. Cải cách ruộng đất: Cải cách ruộng đất là một chiến dịch do Cộng Sản phát động ở ngoài miền Bắc vào các năm 1952-1956, theo khuôn mẫu của Trung Cộng và Liên Xô. Người ta tìm thấy thư của Hồ Chí Minh cung kính xin chỉ thị của Stalin, Liên Xô, trong công tác giết hại nhân dân Việt Nam đẫm máu nầy . Một số dân bất lương, nghèo đói được đảng Cộng Sản huấn luyện đấu tố, chửi bới những nông dân khá giả, những người làm ăn giỏi trong làng rồi đem họ ra xử bắn, chém đầu, chôn sống, phơi nắng cho đến chết. Những nông dân nầy bị xử tử bởi những cán bộ Cộng Sản, không qua một tòa án chính thức, và không được quyền biện hộ cho mình. Cộng Sản không cho biết là họ đã giết bao nhiêu người, nhưng người ta ước lượng có gần 200 ngàn nông dân, trí thức bị giết. Khẩu hiệu của Cộng Sản trong thời gian nầy là ''Giết nhiều chia nhiều '' để khuyến khích cán bộ Cộng Sản giết dân và được chia của. Tài sản của người chết bị tịch thu phần lớn chia cho đảng Cộng Sản, một phần chia cho những người tố họ. Đảng Cộng Sản khuyến khích con tố cha, vợ tố chồng, trò tố thầy khiến cho xã hội miền Bắc rối loạn về đạo đức, thiếu vắng người trí thức. Con cháu của nạn nhân bị đuổi đi về những vùng rừng sâu nước độc và bị đối xử phân biệt, mất những quyền lợi của những công dân bình thường. Những ảnh hưởng xấu của cuộc tàn sát nầy lên xã hội vẫn còn tác hại đến ngày hôm nay. Trong khi miền Nam dạy học sinh hòa bình, thương yêu và kính trọng thì miền Bắc dạy người dân giết chóc, hận thù. Trong vài hình chụp hiếm hoi của một cuộc đấu tố do một phóng viên Liên Xô ghi nhận được, người ta thấy các hình ảnh của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và Stalin được treo trên cao, ở vị trí trang trọng tôn thờ, là những biểu tượng tinh thần cho các cuộc giết chóc đẫm máu. Các câu thơ sau đây của Tố Hữu, bộ trưởng bộ Giáo Dục miền Bắc, được truyền bá rộng rãi trong dân chúng trong thi kỳ đen tối trên, khuyến khích cán bộ Cộng sản giết dân để chiếm đất, thâu thuế và để tôn thờ các tay Cộng sản cuồng sát của nhân loại :
114. Cuộc di cư năm 1954: Hiệp định Geneve được ký kết giửa thực dân Pháp và Việt Cộng để chia đôi đất nước năm 1945. Theo tinh thần của Hiệp Định Geneve thì hai bên phải giải giới, mang cán bộ, binh lính mình về và để cho người dân Việt Nam có 300 ngày được quyền tự do lựa chọn miền đất sinh sống. Cộng Sản Bắc Việt đã có những kế hoạch rất rõ ràng và vi phạm trầm trọng Hiệp Định Geneve ngay từ ngày đầu:"Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ, Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong, Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng, Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt !" Land Reform: Land Reform was a campaign that followed the pattern of China and was promoted by Vietnamese communists. The campaign was operated in Northern Vietnam in 1952-1956. A significant number of dishonest, bad and poor people were trained by the communists to wrongly accuse hard working farmers, businessmen and intellectuals in public trials in their villages. Then these innocent people were beheaded or buried alive or exposed to the sunlight until they died. These poor victims were tried and killed without formal court proceedings and had no right to defend for themselves. Of course, the Communists didn’t announce the number of people they killed in the Land Reform. There were approximately more than 100,000 farmers and intellects killed. The slogan of the communist party in this period was “kill more, receive more” to encourage communist cadres to kill innocent people. The communist party confiscated properties of these dead people and gave some to the accusers. The communist party encouraged children to accuse their parents, husbands and wives to accuse each other, and students to accuse their teachers. Consequently, the North was greatly disordered in morality and lack of intellectuals. The descendants of the victims were expelled to uninhabited areas and were discriminated against. The bad effects of Land Reform massacres have continued in society until today. While the South tough their children love and peace, the North tough hating and killing. The following poems of To Huu were publicized at that time to encourage the communist cadres to kill, to collect tax and to worship the international murderers: "Kill, kill more and don’t stop, For the green rice field and for fast tax collection, For our party long lasting and for our people to have the same heart beats, To worship Mao and Stalin forever !" Réforme agraire: la réforme agraire fut une campagne qui suivit le modèle de la Chine et fut promu par les communistes viêtnamiens. La campagne fut menée dans le nord du Viêt-Nam en 1952-1956. Un nombre important de malhonnêtes, de mauvais et pauvres gens furent formés par les communistes pour accuser à tort des agriculteurs qui travaillaient dur, des hommes d'affaires et des intellectuels dans des procès publics dans leurs villages. Ces personnes innocentes furent ensuite décapitées ou enterrées vivantes ou exposées à la lumière du soleil jusqu'à leur mort. Ces pauvres victimes furent jugées et tuées sans procédure judiciaire formelle et n'eurent pas le droit de se défendre par eux-mêmes. Bien sûr, les communistes n’annoncèrent pas le nombre de personnes qu'ils avaient tuées durant la réforme agraire. Il y eut environ plus de 100.000 agriculteurs et intellectuels tués. Le slogan du parti communiste durant cette période fut de « tuer plus, percevoir plus » pour encourager les cadres communistes à tuer des gens innocents. Le parti communiste confisqua les propriétés de ces morts et en donna à ses accusateurs. Le parti communiste encouragea les enfants à accuser leurs parents, maris et épouses de s’accuser l'un l’autre et les étudiants à accuser leurs enseignants. Par conséquent, le Nord vit la morale mise à mal et subit le manque d'intellectuels. Les descendants des victimes furent expulsés vers des zones inhabitées et furent victimes de discriminations. Les effets des massacres de la réforme agraire continuent à se faire sentir dans la société jusqu'à aujourd'hui. Si le Sud pratiquait l’amour des enfants et de la paix, le Nord pratiquait la haine et la tuerie. Les poèmes suivants de Tô Huu furent diffusés à l'époque pour inciter les cadres communistes à tuer, à percevoir l'impôt et à adorer les meurtriers internationaux: « Tue, tue plus et ne t’arrête pas, Pour la rizière verte et la collecte rapide de l'impôt, Pour notre parti longue vie et pour notre peuple avoir les cœurs battant à l’unisson, Pour le culte de Mao et Staline pour toujours! » Finalement le bourgeois est exécuté publiquement. Sa famille est chassée dans la rue. Elle est isolée. Ces membres ont l’interdiction de travailler. Des millions de personnes ont été des victimes des communistes du Nord. Ils ont vécu dans un état de pauvreté toute leur vie. Ces gens étaient de bons agriculteurs. On leur a volé injustement tous leurs biens. Cảnh đồng bào miền Bắc trốn chạy Cộng sản tại Hải Phòng năm 1954. Nguồn ảnh: Corbis
Nguồn ảnh: Corbis Nguồn ảnh: Corbis Đại tướng Pháp Deltheil (trái) và Thủ Tướng Việt Minh Tạ Quang Bửu (phải), ký hiệp định chia đôi nước Việt Nam ngày 20 tháng 7 1954 tại Genève. AFP/Getty Images. Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải, Quảng Trị chia cắt hai miền Nam Bắc. Ảnh Life Magazine. |
Excerpt from : http://www.vietlist.us/SUB_VietHistory/VNHistory_12.shtml
THANKS FOR THIS POST & LINK TOM PREMO - NGUYÊN MINH TÂM - TT |
cuuphansinh wrote on May 20, '11
RÒM sưu tầm tốt quá !
|
cuuphansinh said
RÒM sưu tầm tốt quá !
Ròm còn sưu tầm thêm hình ảnh về nửa mới đủ bộ lận hehehe
|
nam64 said
Cám ơn chú thích thêm cho Entry này .
Cảm ơn chi Ròm ơi.
Có điều, phải rất cẩn thận khi vào wiki tiếng Việt. Câu chữ của họ không chỉ là thông tin, mà còn là tuyên truyền. Tôi "nghiên cứu" họ khá lâu rồi mới đi đến kết luận đó. Nếu có thì giờ, Ròm "theo dõi" những người thường xuyên viết ở mục lịch sử và theo dõi các tranh luận của họ để đi đến kết luận đăng gì, bỏ gì. |
hongdwc said
Có điều, phải rất cẩn thận khi vào wiki tiếng Việt. Câu chữ của họ không chỉ là thông tin, mà còn là tuyên truyền. Tôi "nghiên cứu" họ khá lâu rồi mới đi đến kết luận đó. Nếu có thì giờ, Ròm "theo dõi" những người thường xuyên viết ở mục lịch sử và theo dõi các tranh luận của họ để đi đến kết luận đăng gì, bỏ gì.
Đây là lý do vì sao Ròm cám ơn "chú thích thêm" .Nhờ những còm Reply phân tích thêm cho Entry tài liệu ,lich sử ,... của bọn chúng đưa ra(?) ,mới biết được cái sự thật ở đằng sau lưng những cái tài liệu Wiki made in csVN này ====> vì vậy mà Ròm rất cần những cái Reply phân tích .
Ròm xa quê hương từ khi còn nhỏ ,học chưa tới nơi tới chốn ,nhưng cũng nhận ra được phần nào thật giả và cũng còn phải xem và học hỏi thêm nhiều điều từ anh chị lớn tuổi từ miền Nam .Những gì Ròm học từ sau 75 toàn là giả dối ,cũng may là chỉ có vài năm thôi và Ròm cũng là thành phần bị tẩy chay trong trường ,lớp ...là thành phần có cha làm việc cho VNCH ...hehe cũng nhờ đó mà chưa có bị tụi cs Bắc Việt nhồi sọ hehehehe. |
tyrany1234 wrote on Jun 24
Cả triệu người tỵ nạn hải ngoại cả 40 năm mà ko thấy có đựợc 1 phim ảnh như Tôi Muốn Sống. Thật là useless .
|
vietnamsaigon wrote on Jul 16
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Hình ảnh xưa gom về từ mọi nơi trên mạng Net ,không phải của Ròm ,không thuộc về Ròm .Các bạn cứ tự nhiên lấy về để xem ,để cho bạn của các bạn xem hay làm tư liệu ..... sao cũng được hihi .Phần nhiều hình xưa từ trước 1975 và một ít hình xưa thuộc về cận sau 75 . Về nguồn hình đem về thì có cái có có cái không đó là do khi có khi không và "quên" cái việc "Nguồn Hình" hehehe Thông cảm nha .
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm