|
ntqt wrote on Apr 10, '11, edited on Apr 12, '11
Lịch Sử Hình Thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ₪₪₪₪
Trước
năm 1975, ai cũng biết Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu tự vệ
chống lại Cộng Sản Bắc Việt và Cộng Sản Quốc Tế xâm lăng. Trong cuộc
chiến đấu khốc liệt này người lính Việt Nam Cộng Hòa đã quên mình vì
nước, vì dân. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không những chống lại cuồng
vọng xâm lăng của cộng sản Bắc Việt, mà còn anh dũng đánh Trung cộng xâm
lăng Hoàng Sa. Lúc đó cố Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn
Văn Thiệu có nói, “Mình nhất định không để mất tấc đất nào vào tay
ngoại bang. So về tương quan lực lượng dù chúng ta có yếu hơn, nhưng
chúng ta vẫn phải đánh!” Điều đó nói lên rằng Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đã quyết tâm giữ nước, lo cho dân. Nơi nào có bóng dáng Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa và cờ vàng ba sọc đỏ, thì nơi đó dân chúng được
sống an ninh, sung túc; hưởng chút tự do. Chỉ bao nhiêu điều đó thôi
cũng đủ tuyên bố được rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có chính nghĩa. Dù
sống lưu vong, cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn giương cao
ngọn cờ Quốc Gia và luôn đứng về phía chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc. (i)
I) Giai đoạn trước khi có Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Ôn
lại giai đoạn lịch sử, kể từ khi thực dân Pháp đô hộ nước ta 1884 đến
khi có Quân Đội Quốc Gia QĐQG (1949), tiền nhân Việt đã chiến đấu giành
Độc Lập và bảo vệ Đất Nước ra sao? Kể từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ
toàn thể đất nước ta (1884), đó là hiệp ước cuối cùng, vẫn thường được
gọi là hiệp ước Giáp Thân (1884), công nhận sự đô hộ của Pháp, chia Việt
Nam làm ba phần. Nam Kỳ là thuộc địa, Bắc Kỳ nửa thuộc địa còn Trung Kỳ
là đất bảo hộ. Từ đấy nổ bùng cuộc chiến kiên cường của dân Việt Nam để
giành lại độc lập. Trước sự xâm lăng trắng trợn và cai trị tàn ác của
thực dân Pháp, toàn dân Việt luôn chiến đấu để giành Độc Lập dưới nhiều
hình thức khác nhau:
A- Phong trào Cần Vương
Mâu
thuẫn ngoại giao giữa Triều Đình Huế và phía Pháp nổ ra khi Toàn Quyền
De Courcy đòi làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi và đòi phải được cùng
đoàn tùy tùng đi qua cổng chính là cổng chỉ dành riêng cho các vua
Nguyễn (7.1885). Triều đình Huế không chấp nhận và cho quân tấn công vào
tòa Khâm Sứ, trại lính Pháp ở Huế. Cuộc tấn công thất bại. Vua Hàm Nghi
phải xuất bôn. Tôn Thất Thuyết đưa vua ra Quảng Trị rồi đến Nghệ An và
đóng bản doanh tại đấy. Từ bản doanh, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần
Vương, kêu gọi nhân dân khắp nơi nổi lên chống Pháp. Thực dân Pháp đưa
quân đi càn quét núi rừng Quảng Bình, Nghệ An hòng bắt vua cho được.
Đồng thời, tại Huế, thực dân Pháp đưa Đồng Khánh lên làm vua. Đồng Khánh
phải thân hành sang Khâm sứ Pháp để làm lễ thụ phong.
Chiếu
Lệnh Cần Vương của vua Hàm Nghi được sự hưởng ứng mạnh mẽ khắp nơi, nhất
là trong giới sĩ phu và ngay cả sau khi vua đã bị bắt đi đày rồi.
1-
Ở Trung Kỳ, tiêu biểu cho phong trào Cần Vương là cuộc khởi nghĩa của
Mai Xuân Thưởng (1860-1887). Vốn là người thi đậu cử nhân, Mai Xuân
Thưởng quy tụ được nhiều nhà nho tên tuổi ở Quảng Ngãi, Bình Định. Họ
cùng nhau lập căn cứ ở Bình Định. Nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng chống
chọi của quân Pháp trong ba năm ròng. Quân Pháp nhiều lần viết thư dụ
hàng nhưng đều bị ông từ chối. Cuối cùng quân Pháp điều Trần Bá Lộc, một
kẻ cộng tác đắc lực với Pháp, từ Nam Kỳ ra đương đầu cùng nghĩa quân
khởi nghĩa. Sau nhiều lần giao tranh đều thất bại, Trần Bá Lộc đành dùng
lại biện pháp mà quân Pháp đã dùng với Nguyễn Trung Trực: cho bắt mẹ
của Mai Xuân Thưởng để buộc ông phải ra hàng. Mai Xuân Thưởng ra nộp
mình để cứu mẹ. Ông không chấp nhận việc quy hàng và bị đưa ra hành
quyết tại quê nhà (Bình Định).
2- Một cuộc nổi dậy hưởng ứng
chiếu Cần Vương tại Thanh Hóa là của Đinh Công Tráng (?-1887). Đinh Công
Tráng nguyên là tùy tướng của Hoàng Tá Viêm. Khi vua Hàm Nghi xuống
chiếu Cần Vương, ông cùng các nho sĩ nổi tiếng như Đốc học Phạm Bành,
Tiến sĩ Tống Duy Tân... xây dựng căn cứ địa Ba Đình tại Thanh Hóa. Nghĩa
quân thường đi đánh phá các đồn bót của quân Pháp. Sau ba năm chiến
đấu, căn cứ của nghĩa quân bị quân Pháp phá được. Trên đường rút lên
núi, Đinh Công Tráng bị tử thương". (ii)
Nhận định về giai
đoạn lịch sử nầy hiện vẫn còn trong vòng tranh luận gay gắt ngay trong
hàng ngũ Quốc Gia và Cộng sản. Nhưng dù phong trào Cần Vương sau nầy có
bị lịch sử phê phán do các chính sách: "Bình tây, sát tả" (tức là giết
giặc Tây hay là thực dân Pháp và giết tà đạo tức là giết người theo đạo
Thiên Chúa Giáo kể cả Việt Nam và ngoại quốc) có phạm nhiều sai lầm làm
phân tán, chia rẽ phong trào kháng Pháp, nhưng hành động của Linh Mục
Trần Lục dẫn 5000 giáo dân phụ lực với thực dân Pháp tiêu diệt nghĩa
quân của Đinh Công Tráng một vị tướng, tuân hành lệnh kháng Pháp của Vua
Hàm Nghi đang còn bôn tẩu là một hành động không thể nào bào chữa được.
3- Hà Tĩnh, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (1847-1895)
và Cao Thắng (1864-1893) cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân
tộc. Phan Đình Phùng đã bái yết vua Hàm Nghi sau khi vua xuất bôn và
nhận nhiệm vụ lãnh đạo phong trào Cần Vương tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Ông
xây dựng đồn trại, lập xưởng công binh chế tạo vũ khí. Quân Pháp với sự
giúp sức đắc lực của Hoàng Cao Khải, nhiều lần dụ ông ra hàng nhưng
không được bèn cho quật mồ tổ tiên ông. Cuộc chiến đấu của Phan Đình
Phùng kéo dài đến hơn 10 năm. Trong một lần bị bao vây, ông bị bệnh kiết
lỵ và chết.
4- Quân Pháp lại phải đối phó với phong trào Cần
Vương ở Bắc Kỳ. Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926) lập chiến khu ở Bãi Sậy,
dùng chiến thuật du kích tấn công tiêu diệt các toán quân tuần tiễu, các
đồn bót của Pháp. Quân Pháp bị thiệt hại nhiều trận nặng nề, dồn lực
lượng càn quét nhiều lần không được, đành phải đưa Hoàng Cao Khải ra
trấn áp và dụ hàng. Lực lượng nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Nguyễn Thiện
Thuật giao quyền chỉ huy lại cho em, lên đường sang Trung Quốc tìm Tôn
Thất Thuyết để bàn cách phục hưng. Nhưng việc không thành. ông đành
nương náu tại đấy.
5- Một cuộc khởi nghĩa lừng lẫy khác là tại
Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy (1858-1913). Cuộc khởi nghĩa này làm
tiêu hao lực lượng của quân Pháp, không để chúng yên ổn áp dụng chính
sách cai trị của mình tại Bắc Ninh, Thái Nguyên. Quân Pháp phải ra sức
đàn áp đến năm 1913 mới diệt được.
B) Phong trào kháng Pháp vào đầu thế kỷ 20:
Qua
đầu thế kỷ 20, phong trào kháng Pháp của dân tộc Việt Nam không còn
mang thuần màu sắc quân sự nữa. Các cuộc đấu tranh chính trị bắt đầu
xuất hiện mà điển hình là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu cầm đầu.
Là một nho sĩ nổi tiếng, Phan Bội Châu tập hợp lại các sĩ phu của phong
trào Cần Vương sau khi phong trào này thất bại và thành lập một tổ chức
mới là phong trào Duy Tân. Phong trào Duy Tân chủ trương đưa người ra
nước ngoài mà cụ thể là nước Nhật để học hỏi những tiến bộ của thời đại,
chuẩn bị cho lực lượng về sau. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để được đưa sang Nhật
để móc nối trước với nhà cầm quyền Nhật Bản. Vào năm 1908, 200 thanh
niên được gửi sang đấy, nhưng Nhật không sẵn lòng giúp. Phan Bội Châu và
Cường Để phải sang trốn tránh ở Trung Quốc.
Ở trong nước, các
sĩ phu chuyển hướng khác. Dưới sự chỉ đạo của Lương Văn Can, trường
Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập với mục đích truyền bá các tư tưởng
tân tiến, đề xướng phong trào tân học với mục đích đào tạo những thanh
niên ưu tú để thực hiện công cuộc đòi lại chủ quyền quốc gia. Dù hoạt
động chỉ được một năm, nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục đã đánh dấu việc
chuyển hướng quan trọng của giới trí thức Việt Nam.
Khác với
chủ trương muốn dùng bạo lực để chống Pháp của Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh (1872-1926) chủ trương cứu nước bằng đường lối cải lương, mở mang
dân trí và tranh thủ đòi hỏi ở chính quyền quyền dân sinh dân chủ. Ông
bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo vào năm 1908. Do hội Nhân Quyền Quốc Tế
can thiệp, ông được thả ra và bị quản thúc tại Mỹ Tho. Năm 1914, Phan
Chu Trinh lại bị bắt vì bị nghi ngờ là đã liên lạc với Cường Để. Năm
1922, ông sang Pháp tiếp tục hoạt động của mình. Sau đó lại về nước và
mất năm 1926. Đám tang của ông được các nhà yêu nước tổ chức khắp cả ba
kỳ.
Việt Nam Quốc Dân Đảng (iii)
Vào
thập niên 1920, thực dân Pháp càng ngày càng đè nặng ách thống trị tàn
bạo lên đầu lên cổ người dân Việt từ Bắc chí Nam. Chúng đàn áp dã man,
bóc lột tới tận xương tủy, nào sưu cao thuế nặng, nào bắt bớ giam cầm,
tù đầy, tra tấn, thủ tiêu những người yêu nước. Các phong trào nổi dậy
chống Pháp trước đó bị đàn áp dữ dội. Phong trào Đông Du của cụ Phan Bội
Châu cũng bị dẹp tan. Khắp nơi đâu đâu cũng nghe tiếng oán hờn, nỗi uất
hận cao ngút thấu trời xanh.
Trước hoàn cảnh cực kỳ đau
thương của dân tộc, máu căm hờn sôi sục khắp nơi, những người trẻ Việt
Nam không thể cúi đầu khuất phục. Nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, một
sinh viên trường Cao Đẳng Thương Mại Hà Nội, lúc ấy mới 24 tuổi, đã cùng
các thanh niên Việt Nam yêu nước khác như: Nhượng Tống, Phạm Tuấn Tài,
Phạm Tuấn Lâm, Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc
vân vân... đã đứng lên phất cờ khởi nghĩa, bí mật thành lập một đảng đấu
tranh cách mạng vào ngày 25.12.1927, lấy tên là VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG
để chống Pháp, quyết đánh đuổi thực dân giành độc lập, tự do cho dân
tộc. Cụ Phan Bội Châu được cử làm Chủ Tịch Danh Dự, Nguyễn Thái Học được
bầu làm Chủ Tịch Tổng Bộ tức Đảng Trưởng. Ngày 09 tháng 02 năm 1929,
nhằm chiều 30 Tết Mậu Thìn, tên Giám Đốc mộ phu trùm thực dân Pháp tại
Hà Nội là Bazin bị các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng Nguyễn Văn Viên,
Nguyễn Đức Lung, Nguyễn Văn Lân ám sát gây chấn động khắp Đông Dương.
Mật thám Pháp lại càng gia tăng khủng bố, trả thù tàn bạo.
Cuộc khởi nghĩa YÊN BÁI
Trước
cảnh khổ cực trăm bề của người dân, Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết định
Tổng Khởi Nghĩa vào ngày 10.02.1930. Quân cách mạng đã đồng loạt tấn
công vào các cứ điểm quân sự của Pháp: tấn công Yên Bái, Lâm Thao, Hưng
Hóa, ném bom trên cầu Long Biên Hà Nội, đánh Đáp Cầu, Phả Lại, tấn công
đồn binh Pháp tại Kiến An, đánh Phủ Dực, Vĩnh Bảo, Thái Bình, xử tử cháu
tên đại Việt gian Hoàng Cao Khải là Tri Huyện Vĩnh Bảo Hoàng Gia Mô,
giết chết nhiều sĩ quan và binh lính địch, chiếm nhiều căn cứ của thực
dân. Do sự phản công mãnh liệt của quân Pháp, quân khởi nghĩa cuối cùng
bị đẩy lui. Nhiều chiến sĩ cách mạng bị bắt vào ngày 20.2.1930 trong đó
có nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng
cũng tạo tiếng vang khắp nơi và làm rúng động cả chính quốc Pháp.
Cuộc hành quyết tại Yên Bái ngày 17.6.1930
Nhằm
tiêu diệt mầm mống cách mạng, đồng thời khủng bố tinh thần những người
yêu nước khác, thực dân Pháp đã xử chém 13 đảng viên Việt Nam Quốc Dân
Đảng tại Yên Bái ngày 17.6.1930 trong đó có anh hùng Nguyễn Thái Học.
Sau đây là một đoạn tường thuật cuộc xử chém của tác giả Hoàng Văn Đào
trong tác phẩm "Từ Yên Bái Tới Ngục Thất Hỏa Lò": Yên Bái, một vị trí
lịch sử lần thứ hai lại chứng kiến các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng
đền nợ nước. Trong chuyến xe lửa bí mật, riêng biệt khởi hành từ Hà Nội
lên Yên Bái, các tử tù cứ hai người còng làm một, trò chuyện ở toa hạng
tư trên một lộ trình dài bốn tiếng đồng hồ. Cùng đi với các tội nhân còn
có thanh tra sở mật thám Pháp, hai cố đạo người Âu là Linh Mục Mechet
và Dronet. Máy chém di chuyển theo cùng chuyến xe. Đao phủ thủ phụ trách
buổi hành quyết là Cai Công.
Cuộc hành quyết khởi sự vào lúc 5
giờ kém 5 phút sáng ngày 17.6.1930 trên một bãi cỏ rộng với sự canh
phòng cẩn mật của 400 lính bản xứ. Xác chết 13 người chôn chung dưới
chân đồi cao, bên cạnh đồi là đền thờ Tuần Quán, cách ga xe lửa độ một
cây số.
Danh tánh của 13 Liệt sĩ đã lần lượt lên máy chém: Bùi
Tử Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Hồ Văn Lạo, Đào Văn Nhít, Nguyễn Văn
Du, Nguyễn Đức Thịnh, Nguyễn Văn Tiềm, Đỗ Văn Tứ, Bùi Văn Cửu, Nguyễn
Như Liên, Phó Đức Chính và cuối cùng là Nguyễn Thái Học. Tất cả các liệt
sĩ lên đoạn đầu đài đều hô to: Việt Nam muôn năm. Người nữ anh hùng
Nguyễn Thị Giang, một đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết theo
Đảng Trưởng.
Ngoài ra, kể từ ngày khởi nghĩa Yên Bái thất bại,
trên 30 đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng đã bị thực dân Pháp xử chém và
hàng ngàn đảng viên khác bị xử án từ chung thân đến lưu đầy biệt xứ.
C) Các Phong trào kháng chiến từ sau 1930
1-
Sô Viết Nghệ Tĩnh (đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời): Thời điểm ra đời của
chủ nghĩa cộng sản lúc đó rất ít người biết chủ nghĩa cộng sản là gì,
từ đâu tới, phục vụ cho ai? Từ sau 1945 cũng rất ít người biết rõ lý
lịch của Hồ Chí Minh đã từng là cán bộ cao cấp của Quốc Tế Cộng Sản. Vì
vậy khi ông ta về nước lập ra mặt trận Việt Minh, rồi tuyên bố Việt Nam
Độc Lập, lập chính phủ Liên Hiệp thì không chỉ thường dân ít học, mà cả
các nhà trí thức, các đảng phải chống Cộng như Việt Nam Quốc Dân Đảng,
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh... đều (vui vẻ hay miễn cưỡng) tham gia và
còn nhận 70 ghế trong Quốc Hội mà Hồ Chí Minh tặng mà không phải qua bầu
cử! Rất nhiều người kể cả trí thức Việt Nam cũng lầm về con người của
Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam.
2- Phong trào Thanh Niên Tiền Phong.
3- Phong trào Quốc Gia kháng Pháp: Cao Đài, Hòa Hảo, Công Giáo, Phật Giáo.
II) Các giai đoạn hình thành Quân Đội Quốc Gia Việt Nam
1)– Giai đoạn sơ khai của Quân Đội Quốc Gia (1949-1951)
Khi
Pháp bị sa lầy trong cuộc chiến với cộng sản Việt Nam, chánh phủ Pháp
thực hiện chính sách đẩy người Việt không cộng sản nhập cuộc đánh nhau
với người Việt cộng sản, bằng cách thành lập quân đội cho quốc gia Việt
Nam. Trong bối cảnh đó, cựu hoàng Bảo Đại và các đảng chính trị quốc gia
cùng thân hào nhân sĩ, vận động cho một nước Việt Nam thống nhất và độc
lập trong khối Liên Hiệp Pháp. Hạ tuần tháng 4.1949, một hội nghị với
khoảng 2.000 người tham dự, mà một phần ba trong số đó là Pháp kiều có
cơ sở kinh doanh tại Việt Nam. Hội nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ thuộc
địa, nước Việt Nam là một quốc gia thống nhất. Và chánh phủ Pháp đã hợp
thức hóa quyết định của hội nghị. Đó cũng là lúc cựu hoàng Bảo Đại về
nhận chức Quốc Trưởng.
Việc thành lập quân đội cho quốc gia Việt
Nam, xuất phát từ quyền lợi của nước Pháp thực dân. Điều đó chắc không
bạn nào nhầm lẫn. Và rất có thể vì vậy mà có bạn thắc mắc: "Tại sao cựu
hoàng và các đảng chính trị lại tham gia vào chính sách đó của Pháp".
Thật ra các vị ấy nhận định rằng:
"Giữa
Pháp với Việt Minh cộng sản, chẳng bên nào vì tổ quốc và dân tộc Việt
Nam cả, nhưng giữa hai kẻ xấu mà ta phải chọn một, ta nên chọn kẻ xấu
ít. Giữa Pháp với Việt Minh cộng sản, các vị đã tựa vào Pháp - kẻ xấu
ít- để diệt Việt Minh cộng sản - kẻ xấu nhiều- sau đó tương kế tựu kế
đẩy Pháp ra khỏi Việt Nam".
Vào
ngày 8 Tháng Ba năm 1949, sau khi Thỏa Hiệp Élysée được ký kết giữa
chính phủ Pháp và đại diện Quốc Gia Việt Nam, nước Việt Nam tự do trẻ
trung dưới quyền lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Ðại được Pháp công nhận là
một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp (Union Francaise), và Quân
Ðội Quốc Gia Việt Nam được thành lập sau đó để chiến đấu bên cạnh Quân
Lực Pháp chống lại các lực lượng Cộng Sản Việt Nam. Lực lượng mới được
thành lập này mang danh xưng - “Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam” và, lúc đầu,
được đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp cũng như Việt Nam có
quốc tịch Pháp, nổi bật nhất là Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh.
2) Giai đoạn hình thành và lớn mạnh của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam (1951-1954)
Lúc
bấy giờ là đầu trung tuần tháng 5.1950, quốc hội Pháp thông qua dự luật
thành lập một quân đội cho quốc gia Việt Nam với quân số 60.000 người.
Nhưng mãi hai năm sau, một văn kiện gọi là Dụ (về sau gọi là Sắc Lệnh)
của Quốc Trưởng Bảo Đại, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới được chào đời
tại Sài Gòn, thủ đô nước Việt Nam thống nhất ngày 1 tháng 5 năm 1952.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng. Bộ Tổng Tham Mưu Quân
Đội Quốc Gia Việt Nam tọa lạc trên đại lộ Trần hưng Đạo, thuộc Quận 5
Sài Gòn.
3) Giai đoạn chuyển tiếp từ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa (1954-1955)
Ngày
20/7/1954 đánh dấu ngày quốc hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi
cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia
đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh
giới Bắc-Nam.
Giữa bối cảnh một nửa đất nước oằn oại rên siết
trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa
nước còn lại vừa phải đối phó với quân cộng sản còn nằm mai phục trong
các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ,
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Ðội Quốc Gia Việt
Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi
hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày
1/7/1955 Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình
thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu
chống lại cả một đại khối Cộng Sản Quốc Tế hung hãn tràn xuống từ
phương Bắc.
4) Giai đoạn chuyển tiếp từ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa sang Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (1956-1965) (iv)
Dưới
thời của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, sau khi ông
chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý 1955, Quân Ðội Quốc
Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với xác
quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh
để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc.
5)
Giai đoạn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu chống Cộng sản Bắc Việt
xâm lược và được chính phủ giao trọng trách lãnh đạo đất nước
(1965-1975):
Ngày 5/5/1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết
định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc
Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng
cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11/6/1965, chính phủ dân sự do cụ Phan
Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc
lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con
đường tức thời nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức
mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền
lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau
khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau
khi đã xét lại và xác nhận rằng: những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện
tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể tướng
lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11/6/1965, chúng
tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh
Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho
Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia
đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số
8 ngày 5/5/1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5/5/1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày
16/2/1965, Quyết Ðịnh số 6 ngày 17/2/1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày
16/2/1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt
giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần
của Cách Mạng 1/11/1963. Làm tại Sài Gòn ngày 11/6/1965 Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Phan Huy Quát Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam
Cộng Hòa Phạm Xuân Chiểu Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp
Ngày
12/6/1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm
những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh
bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Ðồng Quân
Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy
Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao
Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương
Thủ Tướng).
Ngày
19/6/1965 thành phần Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung
Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn,
đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia
và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước. Từ thời điểm đó, ngày 19/6
được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến
đấu chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước,
xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm móng nằm
vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm
lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt.
Với
sự trợ giúp của các nước Ðồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu
đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã dần lớn
mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh
đội cộng sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng
mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968,
chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp
liệu cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch
Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng
cộng sản tiết lộ bí mật, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngay từ đầu đã ở
trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng cộng
quân.
Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới
phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và
thân cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng
của cộng sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa. Ðó là cuộc chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi
nhất, thiêu cháy huyền thoại Ðiện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm
bại mùa hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng
có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương
tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà còn
phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía
sau lưng và sự hững hờ từ phía hậu phương. Người chiến binh Việt Nam
Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ, bảo
vệ làng xóm. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và
được hạnh phúc. Nhưng chính vì sự dàn xếp của những thế lực Cộng Sản
Quốc Tế và Tư Bản đã đưa đến ngày tang thương 30/4/1975, Quân Lực Việt
Nam Cộng Hòa một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản
tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông
nghênh tuyên bố đại thắng, và thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ, đày
ải những người chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng gia đình và
thân quyến của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến
thắng hay không? Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30/4/1975, giờ
đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt
trời.
Chúng ta xác quyết mạnh mẽ rằng Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa không hề thua và cộng sản không hề thắng trong trận chiến đấu
cuối cùng ngày 30/4/1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực
lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng
trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban
trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng
và tha hồ lăng mạ sĩ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân
định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.
₪₪₪₪
Giờ
đây, sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của
cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới
đã khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong
lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận
lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hệ thống truyền thông và báo chí
ngoại quốc từng một thời ngày xưa góp tay bôi nhọ làm nhục người chiến
sĩ Việt Nam Cộng Hòa, ngày nay đã hồi phục danh dự cho Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa, biểu dương tinh thần chiến đấu và chính nghĩa của Việt Nam
Cộng Hòa. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính
Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm
xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang
hoang phế điêu tàn, hay ở những chốn rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa
triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên
kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây
đã được tôn vinh.
Ðiều mà những người còn sống, những người
còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ
các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc
thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những
người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm
tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc
Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Ðông cuốn xô đi những tàn tích của
cái ác.
Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Ðá Ðen ở
Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người
bạn đã từng sát cánh chia sẻ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh
với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước
Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh
thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất
nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính
người dân Mỹ, cùng mang những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ đây thì
anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có
thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương
binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẫn cao đầu cười nửa miệng trên
những đống gạch đổ nát ngổn ngang của bức tường thành Bá Linh và những
mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa cộng sản. Chính là các anh, người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ
lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản đó. Chúng ta
có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ
Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó cộng sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn
không thấy ngon, đêm ngủ không được yên giấc.
Chúng phải hiểu
một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí
tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm
vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú
đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày
30/4/1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm
trước, cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết chóc
những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những
trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi bốn năm sau,
tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M 16, nhưng
chúng ta có rất nhiều sức mạnh mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ.
Thứ nhất,
sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn
người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng
mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và
hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng
rắn. Ba mươi năm nay, cộng sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để
thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam
Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực
mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.
Thứ hai,
cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư đoàn
tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây
súng M 16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng sản Hà
Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra
trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm
lược của cộng sản quốc tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt
liệt của quân dân Miền Nam.
Thứ ba,
chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua
sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Ðại Nghĩa Ba Sọc Ðỏ hiện
nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở nhiều tiểu bang, quận hạt, thành
phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Ðó há chẳng phải là một
dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ
Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu
trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18
triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối Cộng Sản Quốc Tế với
dân số hơn 1 tỷ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế
giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung
bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30/4. Ðó há
chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu
tanh hôi của bè bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.
₪₪₪₪
Ngày
Quân Lực 19/6 năm nay [2009] có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu
sự bắt đầu hồi sinh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và của niềm tin chính
nghĩa quốc gia qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày
tàn của bọn cộng sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc
hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô vẽ ở quê nhà, chỉ là một
cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những
người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao
độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với
những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự
do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt
Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy
hơn, để cuối cùng lật đổ được bè lũ bạo quyền Hà Nội.
Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn
Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá
Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn
Trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh
thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có
được nhiều sức mạnh đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng
công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn
chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.
Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
07/06/2009 ----------
Bài phân tích và tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau của Long Điền
http://longdien1964.multiply.com/journal/item/38/38
Ghi Chú: (i) http://www.vietland.net/main/showthread.php?t=5
Kỷ Niệm Ngày Quân Lực Việt-Nam Cộng Hòa 19-06: Trước năm 1975, ai cũng
biết Quân lực VNCH đã chiến đấu tự vệ chống lại Cộng sản Bắc Việt và
Cộng Sản Quốc Tế xâm lăng. Trong cuộc chiến đấu khốc liệt này người lính
VNCH đã quên mình vì nước, vì dân. Quân lực VNCH không những chống lại
cuồng vọng xâm lăng của cộng sản Bắc Việt, mà còn anh dũng đánh Trung
cộng xâm lăng Hoàng sa. Lúc đó cố Tổng Tư lệnh QLVNCH Nguyễn Văn Thiệu
có nói, “Mình nhất định không để mất
tấc đất nào vào tay ngoại bang. So về tương quan lực lượng dù chúng ta
có yếu hơn, nhưng chúng ta vẫn phải đánh!”
Chính nghĩa
Quốc Gia đang lúc chiến tranh, chúng ta không đủ phương tiện quảng bá.
Dù có quảng bá chính nghĩa của chúng ta thì đồng minh chưa chắc đã muốn
nghe. Còn tà thuyết Cộng Sản được Việt cộng tuyên truyền rộng rãi thì
lừa được thiên hạ. Thế nhưng sau 1975, khi chiếm được Miền Nam; toàn dân
ai cũng thấy Việt Cộng cai trị nước rõ ràng rách như xơ mướp, chẳng
những thế mà còn bán luôn cả nước, buôn luôn cả dân. Sau 33 năm cai trị
Cộng sản hà khắc lương dân, muôn dân ai oán thấu trời, đã nói lên cái
phi nghĩa của chúng. (ii) http://www.tapthechiensivnch.org/ NHẬN ĐỊNH VỀ QUÂN LỰC VNCH
Lời Tòa Soạn:
Đến 19 tháng 6 này là Ngày Quân Lực lần thứ 42. Nhân dịp này thiết
tưởng cũng cần thêm một lần nữa đưa ra những nhận định về QLVNCH anh
hùng của chúng ta. Một cái nhìn khách quan phải gồm cả những ưu và
khuyết điểm, hay và dở, thành và bại, không phải chỉ gồm những chiến
thắng như trong một bài thuyết trình cho quan khách đến dự một buổi lễ.
Xin giới thiệu bài Nhận Định Về QLVNCH của Nhóm Đặc Nhiệm thuộc
TTCSVNCH/Hải Ngoại.
QLVNCH là một trong những lực lượng chủ
yếu tham chiến trong Chiến Tranh Việt Nam. Với quân số Chủ Lực Quân, Địa
Phương Quân và Nghĩa Quân tổng cộng ngót 1.200.000 người, QLVNCH đã
chịu tổn thất gần 300.000 người tử trận sau hơn 20 năm chiến đấu từ khi
đất nước bị chia đôi. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh, thành tích và phẩm
chất nào chăng nữa, quân lực này cũng đã là một thực thể có vai trò quan
trọng trong chiến tranh và tạo ra những hậu quả đáng kể về chính trị,
quân sư trên thế giới và tác độïng mạnh đến xã hội, văn hóa giáo dục... ở
Việt Nam. Những yếu tố trên không thể bị bỏ quên trong bất cứ đề tài
thảo luận, nghiên cứu nào về lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế
giới.
-http://www.sachhiem.net/LICHSU/DinhVietBao1.php ĐINH CÔNG TRÁNG VỚI QUÊ HƯƠNG VÀ ĐẤT NƯỚC. Đinh Viết Bảo.
Cứ địa do Đinh Công Tráng trực tiếp chỉ huy, xây dựng bằng rơm bùi nhồi
vào rọ đất can thành nhanh chóng và bí mật. Đây là một kiểu thành lũy
độc đáo, từ xưa chưa ai làm. Nghĩa quân có 300 người và 4 khẩu thần
công. Giặc tập trung hai trung đoàn thủy quân lục chiến gồm 3,520 lính
Âu trong đó có 75 sĩ quan do 2 trung tá thủy quân, 1 trung tá pháo binh
chỉ huy. Về sau chúng điều tên đại tá Brixô trực tiếp chỉ huy. Về vũ khí
giặc có 4 tàu chiến, 25 đại bác, còn lại là súng máy, súng trường, sau
thêm hai tàu chở dầu. Tổng đốc Nguyễn Thiện Thuật điều 4 súng thần công,
trên 1,000 lính khố xanh. Cố Sáu điều từ Phát Diệm vào trên 1,000 giáo
dũng và 5,000 dân phu. Cuối chiến dịch hắn điều thêm 3 tàu thuyền lớn và
hàng trăm thuyền nhỏ cho quan thầy.
Giặc mở ba đợt tấn công
nhưng đều thất bại nặng nề. Cuối cùng giặc thực hiện kiểu đánh tàn bạo
của Napoléon ở Tulông: Hỏa công, diệt viện, công thành. Suốt hai ngày
đêm giặc trút liên tục vào căn cứ địa ngót hai vạn qủa đạn đại bác rồi
phun dầu đốt thành. Nhưng thành bằng rơm bùn rọ đất của Đinh Công Tráng
vẫn đứng vững. Xác giặc ngổn ngang, máu loang đỏ nước. 280 lính Âu và
nhiều sĩ quan Pháp bỏ mạng, chưa kể lính triều đình và giáo dũng.
http://www.sachhiem.net/LICHSU/DinhVietBao2.php
Bài hai: Tản Mạn Chung Quanh Cuốn "Linh Mục Trần Lục" của Nguyễn Ngọc
Quỳ: Linh mục Trần Lục (tức Cụ Sáu), người theo quân xâm lăng Pháp tiêu
diệt chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng, nhưng mỉa mai thay
lại là "danh nhân anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn của
dân tộc Việt Nam chúng ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không những
trong nước Việt Nam mà còn cả ngoài nước" "(Đức Ông Trần văn Khả)", "đức
độ và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử hiện đại" (ông
Sơn Diệm Vũ NgọcÁnh), "gương chung cổ cho người cả nước đời đời soi
chung" (ông Vũ Huy Bá) (iii) http://www.vietquoc.org/modules.php?name=News&file=article&sid=923 VNQD Đ
(iv) http://vietnamaaa.numeriblog.fr/congsan/h_ch_minh/
Cho đến nay hầu như không còn ai nghĩ Hồ Chí Minh không phải là Cộng
Sản nữa. Nhưng trong những năm đầu và giữa thập niên 1940 nhiều người đã
tin lời ông ta chối mình không phải là Cộng Sản, mà chỉ là người theo
chủ nghĩa dân tộc. Trong số những người tin lời nói dối của ông Hồ phải
kể đến những sĩ quan cấp úy Hoa Kỳ như Archimedes Patti và Charles Fenn.
Vì ngây thơ hay vì bị thuyết phục bởi những lời lẽ xảo quyệt của ông
Hồ, họ tin ông ta hơn cấp trên của họ là những nhân vật có đầy đủ tài
liệu bằng chứng về quá khứ và hoạt động của họ Hồ. Vì lúc ấy rất ít
người hiểu thế nào là chủ nghĩa Cộng sản, một chủ nghĩa mà ngày nay ai
cũng thấy là hoang tưởng, vì nó chủ trương thế giới đại đồng, phi quốc
gia dân tộc. Hơn nữa thực tế lịch sử đã chứng tỏ tất cả các nước đem áp
dụng nó đều đã điêu đứng tan hoang về vật chất cũng như tinh thần. Chỉ
vài nước như Trung Quốc và Việt Nam cộng sản còn tồn tại vì đã biết sớm
bỏ nó mà đi theo kinh tế thi trường.
Lúc ấy cũng rất ít người
biết rõ lý lịch của Hồ Chí Minh đã từng là cán bộ cao cấp của Quốc Tế
Cộng Sản. Vì vậy khi ông ta về nước lập ra mặt trận Việt Minh, rồi tuyên
bố Việt Nam Độc Lập, lập chính phủ Liên Hiệp thì không chỉ thường dân
ít học, mà cả các nhà trí thức, các đảng phải chống Cộng như Việt Nam
Quốc Dân Đảng, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh... đều (vui vẻ hay miễn
cưỡng) tham gia, còn nhận 70 ghế trong Quốc Hội mà Hồ Chí Minh tặng,
không phải qua bầu cử!
Do đó đa số người dân trong nước và cả
nhân dân thế giới (do một số đông ký giả thiên tả, hoặc không hiểu biết
về chủ nghĩa cộng sản, và không rõ lý lịch của Hồ Chí Minh mô tả) đều
coi ông Hồ là nhà ái quốc, tức người theo chủ nghĩa dân tộc thực sự. Mà
sự lầm lẫn này cho đến nay vẫn còn tồn tại trên những tác phẩm nổi tiếng
thế giới. Vì lúc ban đầu ngay một số đông nhà trí thức, đại trí thức cỡ
Bertrand Russel, hay Jean Paul Sartre... cũng bị lầm bởi học thuyết Mác
mà họ coi như khoa học xã hội tiến bộ. (v) http://www.hh76.h1445812.stratoserver.net/wp/?p=1759 Ý NGHĨA NGÀY QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA 19/6 19/06/2009 by: hh75 Phạm Phong Dinh. Nguồn: Tạp chí Thế giới Mới Điều
đó nói lên rằng QLVNCH đã quyết tâm giữ nước, lo cho dân. Nơi nào có
bóng dáng QLVNCH và cờ vàng ba sọc đỏ, thì nơi đó dân chúng được sống an
ninh, sung túc; hưởng chút tự do. Chỉ bao nhiêu điều đó thôi cũng đủ
tuyên bố được rằng QLVNCH có chính nghĩa. Dù sống lưu vong, Cựu quân
nhân QLVNCH vẫn giương cao ngọn cờ Quốc gia và luôn đứng về phía chính
nghĩa Quốc gia Dân tộc.
07/06/2009
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Hình ảnh xưa gom về từ mọi nơi trên mạng Net ,không phải của Ròm ,không thuộc về Ròm .Các bạn cứ tự nhiên lấy về để xem ,để cho bạn của các bạn xem hay làm tư liệu ..... sao cũng được hihi .Phần nhiều hình xưa từ trước 1975 và một ít hình xưa thuộc về cận sau 75 . Về nguồn hình đem về thì có cái có có cái không đó là do khi có khi không và "quên" cái việc "Nguồn Hình" hehehe Thông cảm nha .
Bấm vào dưới avata "Tham gia trang web này " để có thể biết bài mới của Ròm